ThaiDuong-Jupiters 530

MAY TRANG BAY

Home
Our Purpose
530-List
530-history
Stories/poems
Members Page
The Road
Picture Gallery
Links

Nhớ Cả Khung Trời Mây Trắng Bay!
(Những đoản khúc mùa Đông. Thân kính gởi về “Thần Phong Nguyễn Ngọc-Khoa”, Trung-Tá Lê Bá-Định, Đại-Tá Nguyễn Văn-Bá, cùng những người mà tên tuổi đă đi vào huyền-thoại trong quân-sử.)

Trần Ngọc Nguyên Vũ
*****

Chiều nay, một buổi chiều Đông buốt giá. Những cơn băo tuyết cuối mùa kéo về phủ kín cả bầu trời phố núi. Ngồi bên ḷ sưởi nh́n ngọn lửa hồng bập bùng nhẩy múa, như những bước luân vũ d́u tôi về một vùng dĩ văng xa xăm nào đó…Rồi những h́nh ảnh nhạt nḥa của ngày xưa, cứ ẩn hiện trong đầu tôi như những bông hoa tuyết đang quay cuồng theo từng cơn gió giật bên ngoài. H́nh ảnh hào-hùng của những người bạn đồng-minh, đồng ngũ chợt đến, chợt đi qua đời tôi như bóng mây, nhưng tất cả đều để lại trong tôi những kỷ-niệm sâu đậm không bao giờ phai nhạt. Mà kỷ-niệm th́ bao giờ cũng bắt đầu từ một khoảng thời-gian và trong một khoảng không-gian nào đó của con người, và trong cuộc đời của chúng ta, trải qua suốt một thời chinh chiến, đă có biết bao nhiêu là dấu vết được ghi khắc trong ḷng, biết chọn một dấu vết nào để dàn trải tâm-t́nh…Thôi th́ cứ chọn cái thủa ban đầu của lần nhập cuộc, để góp thêm một ḍng điệp-khúc cho “bản trường ca” trong chiến sử…

Đơn vị đầu đời:

…Cầm tờ sự-vụ-lệnh trong tay, tôi chạy vào căn cứ Tân-Sơn-Nhất. Tới chiếc cổng có rào cản quấn bằng giây kẽm gai chắn ngang, tôi dừng xe lại. Một người lính từ trong chiếc cḥi canh cũ kỹ tḥ đầu ra hỏi: “Thiếu Úy muốn gặp ai.” Tôi nói với anh ta là tôi vào tŕnh diện đơn-vị trưởng. Anh lính gác bước vội ra, đứng thẳng người nện gót giầy đinh kêu đánh cốp một cái, dơ tay chào tôi, rồi chạy lại kéo rào cản cười nói: “Dạ Thiếu Uư cứ đi thẳng, văn pḥng ổng ở trong hangar phía tay trái.” Tôi cám ơn người lính trẻ rồi từ từ chạy xe vào. Dọc đường, nh́n về phía tay mặt, tôi thấy rải rác những chiếc AD6, hai bên cánh nặng chĩu bom và hỏa tiễn, nằm phơi ḿnh trong ánh nắng. Tôi dừng xe lại, ngắm nh́n những “con chiến mă” mà tôi sắp sửa được cưỡi nó, mà như ngửi thấy mùi vị của chiến tranh phảng phất đâu đây. Nh́n đồng hồ



tay thấy chỉ 11:15, tôi sợ ḿnh đến trễ, nên vội phóng xe vào hangar. Vừa dựng xe xong, c̣n đang ngơ ngáo nh́n quanh không biết pḥng của Xếp ở đâu, th́ một ông Đại-Úy trông trẻ măng, mặc bộ đồ bay đen, trên ngực áo đeo tấm huy-hiệu “Thần Phong”, bên tay áo thêm một cái “badge” nhỏ thêu h́nh chiếc AD6, dưới có đề chữ “83 SAG”, cùng khẩu “P38” đeo xệ bên hông, trông thật “gồ ghề, oai-phong lẫm-liệt” từ trong bước ra. Tôi đứng nghiêm dơ tay chào. Ông không chào lại mà khoác tay nói:

- Lần sau khỏi chào nghe, tôi là Thành, mới về hả?
- Dạ

Ông vỗ vai tôi thân mật nói:

- Ở đây mọi người gọi tôi là “Thành Cóc”, “nick name” của cậu là ǵ
- Dạ “Cà Chớn”.

Ông ph́ cười để lộ ra hàm răng khểnh trông thật có duyên:

- H́ h́…trông cậu đẹp trai hiền lành thế này sao lại lấy cái tên dữ dằn ấy.
- Dạ, tại “mấy thằng bạn cà chớn” dưới miệt Biên-Ḥa thấy em đẹp trai hơn tụi nó, nên tụi nó ganh, và đặt cho em cái “nick” này để ém tài.
- Hà hà…cậu đấu nghe cũng được lắm. Để mai mốt có dịp, tôi giới thiệu cậu với “Không quân tứ quái”. Mà cậu biết họ là những ai không.
- Dạ em mới về nước, chỉ mới nghe đại danh: “Nhất Luyến, nh́ Phiên, tam An, tứ Hợi”, nhưng chưa được hân hạnh diện kiến.

Ông lại cười h́…h́…giục tôi lên xe:
- Thôi được rồi, lên xe đi, ḿnh đi ăn trưa.

Tôi ngập ngừng nói với ông là tôi chưa tŕnh kư SVL thuyên chuyển. Ông cười nói:

- Đi bay hết cả rồi. Ăn trưa về tôi dẫn cậu vào gặp Xếp, và đi lănh đồ trang bị cá nhân.

Tôi leo lên chiếc xe “Jeep” mui trần, theo ông đi ăn trưa, quên luôn vụ gặp đơn vị trưởng. Khi chạy ngang qua cổng, ông ngừng xe ngoắc một anh lính pḥng thủ lại hỏi:

- Ăn uống ǵ chưa?
- Dạ rồi Đại-Úy. Em vừa xuống ca trực.
- Tốt, vậy cậu đi theo coi dùm cái xe cho tụi này ăn trưa.

Anh lính trẻ cười toe toét nhẩy lên ngồi băng sau. Ông chạy xe thẳng ra cổng Phi-Long, hai người lính quân cảnh đứng nghiêm dơ tay chào theo đúng “quân phong quân kỷ”. Tôi liếc nh́n ông bằng tia mắt thán phục, rồi ngả người gác chân lên thành xe, và cảm thấy hănh-diện mỗi khi có người quay qua nh́n chúng tôi. Buổi trưa hôm ấy, ông bao tôi một chầu ăn trưa tại nhà hàng Maxim, trên đường Tự-Do.

Đó là kỷ-niệm đầu đời một người lính của tôi, sau khi trải qua những ngày tháng rèn luyện ở quân trường, rồi trường bay, để được lột xác từ một anh “bạch diện thư sinh” thành một “người lính chiến.” Tôi quen ông “Thành Cóc” cũng kể từ ngày đó…Những ngày tháng sau này, cuộc đời bay bổng của tôi dính liền với ông, cùng những nhân vật của huyền-thoại như: Lưu Kim-Cương (Khểnh), Nguyễn Ngọc-Khoa (Đen), Nguyễn Văn-Tường (Mực), Nguyễn Huy-Cương (Khào), Huỳnh Văn Vui, Nguyễn Ngọc-Thức, Nguyễn Quư Chấn, Lê Mộng-Hoan, Cung, Việt, Thái Phương-Thủy, Huỳnh Thanh-Minh, Trần Mạnh-Khôi, Tạ Thượng-Tứ, Trần Thanh-Liêm, và một người không phải là dân không-quân nhưng lại rất gắn bó với KQ, đó là ông “C̣ Quận 5 Tr/Tá Lê Ngọc Trụ”, theo với định-mệnh thăng trầm trong cuộc chiến, cho đến ngày Biệt-Đoàn giải tán…Sau này mỗi khi cầm khúc bánh ḿ leo lên chiếc phi cơ chất đầy bom đạn, nghĩ đến bữa ăn trưa thịnh-soạn tại nhà hàng Maxim ngày nào (mặc dù là ông kư sổ), tôi lại thấy bâng khuâng…Tôi ngửa mặt nh́n trời, như muốn gởi theo những đám mây trắng đang lững lờ trôi, một lời cám ơn đến ông “Thành Cóc”.

Ông “Thành Cóc” ơi! Khi đọc được những ḍng tâm-t́nh này, ông có nhớ ǵ không??? C̣n tôi, tôi nhớ rất rơ những lần theo ông đi biệt phái “Nakhon Phanom” trên Bắc Thái…Những buổi chiều ngồi trong chiếc quán lá bên gềnh đá, cạnh bờ sông Mekong, bên kia bờ là buôn Takhet của vương quốc Lào, với những cuộn khói ảo huyền lan tỏa trong không-gian như đưa hồn tráng-sĩ về nhập thể cùng với Phù-Dung Tiên-Tử…Tôi thấy ông ném tia nh́n khinh bạc xuống ḍng sông, nơi có những tấm thân trần nơn nà của các cô “Ṇong Sảo” đang nô đùa trong ḷng nước bạc, để chia xẻ cùng anh em những nỗi âu lo về chuyến vượt biên ban đêm…Và những đêm trăng mờ huyền hoặc, chúng ḿnh cùng xuyên mây vượt đỉnh Trường-Sơn Tây, qua thung lũng Trường-Sơn Đông, bay sâu vào vùng đất địch…Từ trên cao độ, nh́n những tia đạn lửa vút lên như những “ngôi sao băng ngược” mà thấy lạnh người, để khi về đáp, c̣n mang theo những h́nh ảnh hăi hùng vào trong giấc ngủ liêu-trai…

Tôi cũng không thể nào quên được những giây phút lâng lâng, cùng ông, và Khôi (Công Tử) ngồi dưới ánh đèn mầu bên ly rượu, thả hồn vào tiếng nhạc, rồi đưa bước chân bồng bềnh theo tấm thân mềm mại của kiều-nữ giai-nhân, để quên đi những nỗi nhọc-nhằn, nguy-hiểm trong những chuyến bay đùa dỡn với tử-thần…Nửa khuya trước khi ra về, ông gọi chị “Tài-Pán” đem quyển sổ dầy cộm cho chúng ḿnh kư tên, và dành cái vinh dự được trả tiền cho anh Khoa (Đen) và “Ông C̣ Quận 5” dạo ấy.

Rồi một buổi trưa nào buồn hiu hắt, với những đám mây nặng chĩu tâm-t́nh của vùng núi đồi trầm lặng, trên sân bay Cam-Ly. Chúng ta cùng ghé vai khiêng chiếc quan tài của người trai anh dũng đă hy-sinh, Tr/Úy Trương Văn Đồng, vừa được thiên táng giữa ṿm trời lửa đạn, để trả lại những kỷ vật của anh về với ṿng tay ấp ủ ngàn đời của Mẹ Việt Nam yêu dấu…

…Tôi cũng c̣n nhớ “những kiện hàng bất đắc dĩ” được bí mật đem vào phi-trường NKP…Nửa đêm hôm ấy, Huỳnh Thanh-Minh cùng “Cung củ đậu”, Việt, dựng anh em dậy để “luận truyện giang-hồ...” Rồi trên đường về, khi bay ngang Savanakhet để vào “in bound” không phận nhà, bốn chiếc khu-trục AD5 sơn mầu rằn-ri, không cờ hiệu, bị một phi-tuần 2 chiếc F102 Delta Wing của người bạn đồng-minh, không biết cất cánh từ đâu, bay lên nghênh cản. Dẫn độ phe ta một đoạn đường…Và những lời xin lỗi của “Trung-Tâm Kiểm-Báo Tiger” cho sự nhầm lẫn “chết người” này.

…Tôi vẫn c̣n nhớ đến cái chết tức tưởi của Tr/Tá Tuấn, khi chiếc xe jeep của ông đậu trước nhà bị gài lựu đạn nổ tung. Mang theo những bí ẩn không bao giờ được bạch hóa trên trang quân sử…

…Và làm sao tôi quên được lần ông Tường (Mực) dẫn anh em ra “nằm valy”, trải nệm tại phi-trường Đà-Nẵng, vào thời kỳ biến động miền Trung. Tôi bay số hai cho Tr/Úy Việt, trong phi-vụ “tuần pḥng vơ trang” trên bầu trời Đà-Nẵng. Đang bay th́ bị hai chiếc phản lực F8 Crusader của Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ bay lên nghênh cản, ép chúng tôi phải bay ra biển…Việt nhất định đ̣i ăn thua đủ, ông thần này thuộc dân “Pensacola”, trông lầm lỳ và rất “Hot”…Nhưng chưa đầy 30 giây sau đó, chúng tôi được Panama chuyển một mật lệnh kêu chúng tôi phải đáp gấp. Sau khi đáp, tôi thay bộ đồ bay định ra phố ăn tô “bún ḅ xóm mả” cho ấm bụng, nhưng phi-trường ở trong t́nh trạng “cấm trại” nên không ra cổng được. C̣n đang đứng xớ rớ thi gặp Tr/Úy Dục, trưởng pḥng An-Ninh KQ Đà Nẵng, tôi dựa hơi, khều Dục chở ra phố. Khi trở về, vừa vào đến căn cứ, tôi thấy cả biệt đội đang quay máy sửa soạn cất cánh. Tôi hoảng hồn phóng lên chiếc phi-cơ c̣n lại, mặc nguyên bộ đồ dân sự, chân đi dép cao xu, để đầu trần, bay theo ông Tường về Tân-Sơn-Nhất. Khi vào cận-phi bên cánh phải, ông quay qua nh́n tôi, cặp mắt trợn trừng như muốn tóe lửa. Lần đó tưởng thế nào cũng bị lănh củ, nhưng thấy ông không nói ǵ tôi mừng húm. Ông Tường ơi! Có phải v́ muốn phạt tôi, mà trong lúc bay về SàiG̣n ông đă cho phi-tuần b́nh phi ở cao độ 12,000 bộ, làm tôi lạnh teo…

Và c̣n nhiều lắm, làm sao kể hết…Cho đến cái phút quay lưng, tôi thấy ông cùng ông Hưng (phệ) quắc mắt, thốt lên một lời thề cho ngày trở lại…Ông “Thành Cóc” và ông Hưng ơi, lời thề đó có c̣n vang vọng trong ḷng hay đă phôi pha…

Tết Mậu-Thân! Vùng trời hỏa tuyến:

…Hàng năm cứ mỗi độ Xuân về, ḷng tôi lại dấy lên những kỷ-niệm bi thảm của ngày đầu Xuân năm ấy, ngày đầu Xuân của cái Tết Mậu-Thân với tiếng bom đạn nổ vang trời thay cho tiếng pháo…

…6 giờ sáng ngày Mồng Một Tết, tôi cùng Nguyễn-Du thi-hành phi-vụ tuần-thám vơ-trang "Đà-Nẵng Quảng-Ngăi Đà-Nẵng". Chúng tôi cất cánh sớm hơn giờ dự trù, hy-vọng về đáp sớm để c̣n bay một phi-vụ không-hành về Sài-G̣n ăn Tết với gia-đ́nh. Khi vừa lên cao độ b́nh-phi th́ chúng tôi phát hiện một đoàn người từ hướng núi tiến ra bờ sông Hàn, và như đang định bơi qua sông để vào Đà-Nẵng. Mới đầu chúng tôi tưởng là dân chúng đi trẩy hội Tết, nên bay xuống thật thấp để làm một cú "bay thấp" chúc Tết mừng Xuân. Nhưng vừa xuống khoảng 100 thước th́ ở dưới bắn lên tới tấp. Chúng tôi hoảng hồn phóng vút lên lấy cao độ, rồi báo cáo về Panama là có một đoàn quân Cộng-Sản đang vượt sông Hàn để vào Đà-Nẵng. Panama không dám quyết định, yêu cầu chúng tôi làm ṿng chờ trên cao độ đợi xin lệnh quân-đoàn I. Đoàn người ở dưới biết là đă bị lộ nên ào hết xuống sông để qua bờ bên kia. Nguyễn Du tính nóng như lửa, hối thúc tôi phải hành động ngay, v́ nếu để đám quân này qua được bờ sông th́ chúng sẽ lẩn vào nhà dân chúng, và t́nh thế sẽ trở nên rất nguy-hiểm.



Hai chiếc khu-trục A1 cùng song hành lao xuống thật thấp, oanh-kích trực xạ vào đoàn quân Cộng-Sản...Từng chùm hỏa tiễn từ hai chiếc khu-trục cơ phóng vụt ra, cầy tan mặt đất... Xác người vỡ nát, thịt xương bắn tung lên. Những viên đại-bác 20ly công phá, xuyên thủng những tấm bia thịt đang ngụp lặn giữa ḍng sông... Xác địch nổi lềnh bềnh như xác quân Măn-Thanh, mặt nước đỏ ngầu như nước sông Hồng mùa Xuân năm Kỷ-Dậu...Chỉ trong khoảng thời-gian chưa đầy 15 phút, hai chiếc khu-trục A1 đă trút hết hoả-tiễn và đại-bác 20ly, tiêu diệt gần một nửa số người trong đoàn quân xung-kích của địch. Đám người c̣n lại quay đầu chạy ngược vào phía núi... Lúc đó th́ Panama mới liên-lạc cho biết lệnh Quân-Đoàn là phải ngăn chặn đoàn quân này bằng mọi giá. Chúng tôi cho Panama biết là phi-vụ đă hoàn tất. Trên vùng cũng vừa có Thiên-Phong 11 của PĐ 110 tiếp-tục công việc theo dơi, và một phi-tuần Phi-Hổ của Đoàn-Toại và Trịnh Đức-Tự cũng vừa lên kịp để thay thế cho chúng tôi về đáp...

Khi về đến phi-đoàn chúng tôi thấy toàn bộ chỉ-huy của KĐ41 chiến-thuật cùng Phi-Đoàn-Trưởng, Phi-Đoàn Phó, Truởng Pḥng Hành-Quân và các nhân-viên phi-hành của PĐ516 đều có mặt đầy đủ... Chỉ thiếu có mấy viên cố-vấn Hoa-Kỳ. Đặc biệt có qúy phu-nhân của Trung-Tá Tư-Lệnh KĐ, Thiếu-Tá Liên-Đoàn-Trưởng LĐ41/Tác-Chiến cùng Đại-Uư Phi-Đoàn-Trưởng PĐ516 tíu tít sắp bánh chưng, gị chả và kẹo mứt trên bàn để mời những người lính chiến KQ ăn Tết tại chỗ. Tiếng chuông điện thoại reo tới tấp, và trên bảng phi-lệnh chi chít những phi-vụ chờ cất cánh. Lệnh cấm trại 100% được ban hành, lúc bấy giờ chúng tôi mới biết là Việt-Cộng tổng công-kích toàn lănh thổ miền Nam Việt Nam…

Rồi đến ngày Mồng Ba Tết…Tôi c̣n nhớ rất rơ h́nh ảnh chiếc L19/PĐ110 của Th/Úy Dương Như Chót và Tr/Úy Nguyễn Tuấn-Dị từ trên cao lạng xuống như một chiếc lá rơi, đáp trên phi-đạo, lao về phía tôi, rồi một cánh tay tḥ ra chụp lấy tôi kéo thốc lên. Chiếc phi-cơ quay đầu 180 độ, hai bánh xe cà trên mặt nhựa đến tóe khói và muốn bốc lửa…Chiếc L19 phóng tới bốc ḿnh lên, mang theo người phi-công khu-trục bị bắn gẫy cánh, vừa làm crashed ngay đầu sân bay của phi-trường Quảng-Ngăi, trước những con mắt lạc thần của đám quân cuồng khấu…

Những ngày đầu Xuân của cái Tết Mậu-Thân năm ấy, trong một hoàn cảnh rất t́nh cờ, mà Nguyễn Du và tôi đă cứu được thành phố Đà-Nẵng thoát khỏi thảm họa do đám người cuồng tín gây ra như ở Huế và các thành phố khác...Sau này khi đang ở PleiKu, tôi nghe tin Nguyễn Du cùng Trịnh Đức Tự đă hy-sinh, tôi chỉ biết cúi đầu thắp một nén nhang ḷng, để tưởng nhớ đến những tri-kỷ không được cùng nhau đi trọn một đoạn đường.

Biên-Ḥa! Vùng trời xứ Bưởi:

…Kể từ ngày rời Biệt-Đoàn 83, tôi bắt đầu dấn thân vào con “đường gió bụi”, với những lần thuyên chuyển như cánh chim di tới mùa, xoải cánh ngược xuôi khắp 4 vùng chiến-thuật.

C̣n nhớ sau Tết Mậu-Thân một thời gian, vào khoảng đầu năm 69, tôi gánh hai cái “chiến thương bội tinh”, khăn gói qủa mướp, giă từ miền hỏa-tuyến, lên đường xuôi Nam về vùng trời xứ Bưởi, tŕnh diện Th/Tá Hoàng Thanh-Nhă. Ông Xếp mới của tôi gốc Đà-Lạt, khổ người mảnh mai, ăn nói nhỏ nhẹ, dáng điệu từ tốn như một tiểu thư khuê-các. Nếu ông không mặc bộ đồ bay cùng khẩu súng ngắn đeo xệ bên hông, th́ người ta khó có thể ngờ ông là chỉ huy trưởng một đơn vị tác chiến lừng danh của KQVNCH…Phi-đoàn “Phượng-Hoàng 514”, vốn là thối thân của “Đệ Nhất Phi-Đoàn Khu-Trục” của không-lực, với những nhân vật mà mới chỉ nghe nhắc đến tên thôi, cũng đủ làm khiếp vía “giang hồ hai đạo Hắc Bạch”, như Phạm Long Sửu, Vơ Xuân Lành, Nguyễn Quang Tri, Nguyễn Văn Long, Phạm Phú-Quốc, Nguyễn văn Cử, Lê Văn-Thảo…

Đổi về đây một thời gian, tôi thấy thương cái vùng đất hiền ḥa mà phải chịu một định-mệnh khắt khe của cuộc chiến này. Biên Ḥa! Vùng đất vừa chua vừa ngọt như những trái bưởi thanh bưởi ổi. Nơi có con sông bên lở bên bồi, cùng những chuyến đ̣ ngang của các cô gái mặc áo bà ba, với đôi mắt buồn vời vợi như đám mây trời lờ lững, gánh nặng trên vai những “cuộc t́nh không trọn” của một thời ly loạn…



Giang-sơn nào anh hùng nấy…Ở Biên-Ḥa cũng có đầy dẫy những “Kỳ-Nhân Quái-Kiệt” của KQ như Lê Văn-Thảo (Nâu), Hiệp-sĩ Say Nguyễn Văn Phong, Lê Như-Hoàn, Lê Quốc-Hùng, Phạm Đăng-Cường, Dan Hoài-Bửu, Nguyễn Tiến-Thành, Nguyễn Quan Vĩnh (Kều), Cao Minh Châu, Lê Thanh Hồng-Vân, Nguyễn Quốc-Hưng (Phệ), Đàm Thượng-Vũ, Nguyễn Đạm-Thuyên, Nguyễn Đ́nh-Lộc, Kiếm Khách Lê-Hải, Phạm Bửu Quang (Quái-Khách PB.Quang được giới giang-hồ xưng tụng là Ông Vua Lỳ), Trương-Phùng, Ấn Đen, Sơn (Đị), Trần Thế-Vinh, Nguyễn Ngọc- Lành, Đào Văn-Lập, Ẩn Cọp, Tám Soi (một Quái-Kiệt từ Bộ Binh biệt phái qua KQ)…C̣n nhiều nữa, và một Quái-Kiệt của PĐ518 là Đ/Úy Phạm Ngọc-Hà, người KQ mang “Đệ Ngũ đẳng huyền-đai Nhu-Đạo”, đă để lại cho tôi nhiều kỷ-niệm khó quên. Phạm Đại-Hiệp ngoài những chiến tích lẫy lừng được ghi trong quân-sử, c̣n có những hành tung cực kỳ bí-mật ngoài đời, biến hóa khôn lường, chẳng khác ǵ những câu truyện thần thoại trong “1001 đêm của Ả-Rập” Tên của anh và tôi giống y chang, chỉ khác cái họ, nên anh thường gọi tôi bằng cái tên nghe thật thân thương: “Hà ta!” Ư chừng anh muốn dụ tôi nhập băng với anh chăng??? Mỗi lần nghe anh gọi như vậy th́ tôi lại “né” anh.

…Nhưng dường như giữa tôi và anh đă có những sợi dây ràng buộc vô h́nh nào đó trong một phần của cuộc sống. Tất cả đều là những truyện thật t́nh cờ, coi như cái “duyên giang-hồ” trong t́nh đồng đội. Tôi c̣n nhớ một lần v́ mải “binh”, xém chút nữa là trễ giờ TOT, nh́n đồng hồ chỉ c̣n 20 phút, tôi hoảng hồn vơ vội tấm bản đồ rồi kéo Tr/Úy Điền phóng ra ngoài băi đậu. Vừa mở máy xong, tôi tống mạnh tay ga, chiếc phi cơ nhổm đít, quạt tung b́nh nước lạnh đổ vỡ tung toé, và thổi bay mấy người anh em cơ trưởng đứng gần đó. Cứ thế tôi phóng ra phi-đạo xin cất cánh. Lên trời gặp ông “FAC vui tính” vừa t́m ra một “Hot Target”. Sau khi đánh dấu mục-tiêu ông phán: “- Phượng-Hoàng 41, bạn cứ phang ngay vào ổ con chuồn chuồn đó cho tôi, coi chừng pḥng không.” Tôi và Điền nhập cuộc, vào ṿng bắn, nhào lộn, quay cuồng trong khói lửa một hồi, vừa “đi” rốc két vừa “táp-pi” bom nổ…FAC khen tới tấp. Kết qủa ghi nhận có nhiều tiếng nổ phụ. Khi về đáp, vừa leo ra khỏi phi-cơ, tôi thấy anh em phi-đạo chạy tới vây lấy hai chiềc khu-trục. Tôi giật ḿnh tưởng anh em ra “đ̣i nợ máu”. Nhưng khi nh́n thấy mọi người ngước mắt đếm những lỗ đạn quanh thân tầu, có người lấy tay xoa những vết đạn như đang ve vuốt “vết thương” của người t́nh, tôi thấy ḷng ḿnh chùng xuống. Tôi khoác vai một anh lính trẻ đứng cạnh nói:

- Hồi năy bậy qúa, cho tôi gởi lời xin lỗi anh em nghe.

Anh lính cười nói:

- Đ/Uư và Tr/Uư đi hành quân bị lănh đạn, mà c̣n về đáp an toàn là tụi này mừng rồi. Nhằm nḥ ǵ ba cái lẻ tẻ đó. Có điều bữa nay anh em không được uống nước lạnh. H́…h́…

- Thôi để chiều nay tôi mời anh em ra quán thịt rừng Tân-Vạn để tạ lỗi. Ḿnh uống “Ông già chống gậy” thay cho nước lạnh, chịu không.

Anh lính cười toe, rồi kể cho tôi nghe chuyện Đ/Uư Phạm Ngọc Hà “đổ vỏ ốc” cho tôi:

- Hồi năy Đ/U đi khỏang 20 phút sau th́ ông Hà bên 518 về đáp, chưa kịp về phi-đoàn đă bị Tr/Tá Hoài lôi lên văn pḥng “xát xà bông” tối tăm mặt mũi. Tội nghiệp lúc ổng đi ra, trông xiêu vẹo như “gà mắc dây thung”.

Tôi cười bóp chặt vai anh nói:

- Chiều nay tôi sẽ mời ổng đi luôn để uống “ly rượu tạ lỗi”.

Về tới phi-đoàn, sau khi ghi “chiến tích” trên sổ trực của PĐ và cùng Tr/Uư Điền giải tŕnh phi-vụ xong, tôi vào gặp “Xếp” tŕnh bày tự sự, rồi xin ông “yểm trợ” chút đỉnh cho bữa nhậu sắp tới. Ông nghe xong ngồi ngả người ra ghế, nh́n tôi cười, trông “hiền như Bụt”:



- Anh em phi-đạo làm việc rất cực nhọc, cậu không nên làm như vậy. Thôi được rồi, bữa nhậu chiều nay để tôi lo, tôi sẽ kéo ông Hoài đi luôn thể.

Nghe ông nói mời “Ông Hoài” đi luôn thể, tôi giật ḿnh…Nhưng cũng đành cám ơn ông, miệng nở một nụ cười như mếu…

…Tôi nằm nhà thương Cộng-Ḥa được mấy ngày th́ một ”biến cố” quan trọng xẩy đến với tôi. Nhà thương CH ngày ấy, đất hẹp người đông, nên sĩ-quan cấp uư cứ 4 ông “share” một pḥng. Pḥng tôi nằm thuộc hạng sang, khách hàng toàn thứ dữ. Tôi nằm giường dưới. Bên trên, một Đại-Hiệp Biệt-Động-Quân mang “Hồng Đai VoViNam” để lại cặp gị ngoài chiến địa. Giường đối diện, tầng trên một ông Trung Uư Dù trẻ măng, đầu quấn băng trắng xóa chằng chịt, đă hiên ngang hiến hai con mắt cho đại-cuộc, được giang-hồ phong tặng tước hiệu “Hiệp Sĩ Mù”. Tầng dưới là giang-sơn của ông Chuẩn Úy họ Tạ, vừa hạ san chưa đầy một tháng, dẫn trung-đội đi hành quân đạp phải ḿn bẫy, không thiệt hại ǵ nhiều, chỉ mất có “hai ḥn” nơi hạ bộ. Cô y-tá xinh đẹp mỗi khi đến thay băng, thường gọi ông là “Tạ Công Công” (*). Hôm tôi nhập pḥng, mọi người trong pḥng đón tôi bằng những cử chỉ ân t́nh làm ấm ḷng người chiến sĩ. “Hiệp sĩ mù” nói với tôi:



- Hồi c̣n hai con mắt, tôi đọc Dương Hùng Cường, và thích nhất nhân vật “Pi Lốt Thái B́nh”. Anh là dân KQ vậy tôi tặng anh cái mỹ hiệu này xin đừng từ chối.

Tôi cười nói với anh là tôi th́ OK, chỉ sợ ông Dương H. Cường ông ấy kiện. “Hiệp-Sĩ Mù” cất giọng cười sảng khóai. Thế là trên giang-hồ tôi có thêm một cái tên mới. Một buổi trưa, tôi đang nằm mơ mơ màng màng nghĩ đến ngày xuất viện th́ nghe tiếng “Tạ Công Công” khẽ gọi:

- Ê “Pi-Lốt Thái B́nh”, có người đẹp tới thăm ḱa.

Tôi c̣n ngái ngủ vẫn quay lưng ra ngoài. Tôi nghe giọng nói nhỏ nhẹ của người con gái:

- Dạ, xin lỗi đây có phải là pḥng Đ/U Hà không ạ.

Tiếng “Tạ Công Công” thanh thoát cất lên:

- Ông nằm bên kia ḱa.

Tôi nhỏm người dậy nh́n ra ngoài. Một người con gái trẻ đẹp, tay xách gỉo trái cây, đứng bên khung cửa. Bốn mắt nh́n nhau sao thấy ngỡ ngàng. Th́ ra cô lầm tôi với người bạn trai của cô là Đại-Úy Phạm Ngọc Hà. Nh́n bộ điệu lính quưnh của người con gái, tôi thấy ḿnh phải làm một cái ǵ để gỡ cái thế rối này cho nàng. Tôi dơ tay chỉ chiếc ghế cạnh chiếc bàn bên đầu giường, rồi cười nói:

- Vâng, tôi là Hà PĐ514, bạn của Đ/U Hà bên 518. Mời cô ngồi chơi. Xin lỗi cô là…

Mặt người con gái hơi hồng lên, nàng ngập ngừng nói:

- Dạ em là Liên. Nghe các anh Lê Thanh Hồng-Vân và Phạm Văn-Thặng nói là anh Hà nằm Cộng-Ḥa, em cứ tưởng là Hà bạn em, nên…

Hiệp-sĩ mù từ giường bên ngồi dậy nói chơ xuống:

- Th́ Hà nào cũng là Hà cả. Tôi từng thấy nhiều cuộc gặp gỡ t́nh cờ, nhưng chưa nghe trường hợp nào kỳ thú như lần này. Cám ơn cô Liên đă đến thăm anh Hà và chúng tôi. Nằm ở đây hàng ngày nh́n ra ngoài hành lang, tuy không thấy ǵ, nhưng chỉ nghe giọng nói, tiếng cười vui tươi vọng tới, cũng đủ thấy ấm ḷng.

Có lẽ h́nh ảnh bi hùng của những người lính trước mắt, và câu nói như mũi dao nhọn xoáy vào tim của Hiệp-Sĩ Mù, đă làm mềm ḷng người em gái hậu phương, nên Liên ngồi xuống sắp trái cây lên bàn mời chúng tôi. Rồi mỗi người góp một câu khiến bầu không khí trong pḥng vui nhộn hẳn lên. Liên lấy lại sự vui tươi ban đầu, cười nói líu lo thăm hỏi từng người. Nh́n Liên tôi như thấy cả ngàn cánh hoa đào tung bay trong gió…

Rồi tôi xuất viện, Xếp cho nghỉ hai tuần dưỡng bệnh. Trong hai tuần lễ này, ngày nào Liên cũng về Sài-G̣n thăm tôi. Chúng tôi hưởng trọn vẹn những “ngày vui qua mau”.

Nhưng rồi hai tuần nghỉ phép cũng như cơn gió thoảng…Hết phép trở về Biên-Ḥa, tôi lại tiếp tục cuộc đời của một “chinh nhân”, và tôi không c̣n gặp lại Liên nữa. Người con gái đă đến và đi qua đời tôi như một giấc liêu trai, nhưng đă để lại cho tôi những hương-vị tuyệt-vời của một cuộc t́nh thoáng qua trong thời chiến…Có những điều bí-ẩn trong cuộc sống mà chúng ta không hiểu nổi; người con gái mà tôi chọn làm người bạn đời của ḿnh cho đến bây giờ cũng tên Liên.

Ngày tôi rời Biên-Ḥa để đi “trấn thủ lưu đồn”, th́ cái “duyên đồng-đội” của tôi và anh cũng chắp cánh bay xa. Anh Phạm Ngọc Hà ơi! Kể từ ngày đó, tôi không có dịp gặp lại anh, nhưng tôi vẫn theo dơi những chiến tích lẫy lừng của anh ngoài chiến trận. Bây giờ xin anh cho tôi được gọi anh bằng cái tên “Hà ta!” thân thương ngày nào nhé. Gọi nó để nhớ đến người bạn một thời tung hoành trong băo lửa.

PleiKu! Vùng đất trích:

…Lịch-sử của cuộc chiến là một bức tranh khổng lồ, mà mỗi người trong chúng ta chỉ có thể nh́n nó từ một góc cạnh rất nhỏ trong cuộc đời của ḿnh. Có những góc cạnh mà người đứng nh́n tưởng như ḿnh đang lạc vào một “chiều không-gian” khác biệt nào đó, để bất chợt bắt gặp một bông lan rừng nhô ra từ khe đá rong rêu, chênh vênh bên ghềnh thác…Cũng từ cái góc cạnh đặc biệt này, niềm hoài-niệm đă đưa tôi trở lại với PleiKu vào một buổi chiều âm u sương khói…

…Từng tảng mây đen nặng nề từ đỉnh Trường-Sơn chậm chạp kéo về dăng kín cả bầu trời phố núi, như báo hiệu cho một cơn dông lớn sắp đến. Tr/Tá Nguyễn Văn Bá KĐT/KĐ72CT, cùng Thiếu Tá Lê Bá-Định Phi-Đoàn Trưởng, và chúng tôi, những phi-công của phi-đoàn “Thái-Dương 530” tân lập, đứng quây quần bên những chiếc ḷ sưởi dă chiến được làm bằng những chiếc thùng “phuy” săng, ngoài hangar của LĐ60BT&TL cạnh phi-đạo, cùng Thiếu Tướng Kỳ tṛ chuyện tâm-t́nh. Là một đơn vị nhỏ thuộc cấp “phi-đoàn”, mà được Tướng Kỳ ghé thăm, tháp tùng ông là những nhân vật gạo cội của quân-chủng như Tướng Minh TLKQ, Đại-Tá Tần TMP/Hành-Quân, Đại-Tá Tiên TL/KĐ33/CT, ở vào thời điểm cuối năm 1970…th́ không phải chỉ là vinh-dự cho đơn vị, mà c̣n là một niềm hănh-diện riêng cho nguời lính chiến nơi vùng trời biên trấn. Đang nghe vị cựu Tư-Lệnh/KQ kể chuyện, chúng tôi bỗng thấy xe cứu thương và xe cứu hỏa hụ c̣i inh ỏi chạy ra ngoài phi-đạo. Từ chiếc ṿi rồng của xe cứu hỏa phóng ra một lớp “bọt foam” trắng xóa, phủ kín một quăng sân bay. Nh́n về hướng Đông, chúng tôi thấy hai chiếc phi-cơ phản lực đang trên đường cận tiến phi-đạo 27. Bằng những con mắt nhà nghề, chúng tôi nhận ra ngay đó là hai chiếc F100 đang d́u nhau hạ cánh khẩn cấp. Chiếc số một thả bánh đáp, chiếc số hai bám sát bên cánh trái không thấy ra “gear”, chắc là bị bể ống thủy-điều. Cả hai chiếc thẳng tiến tới phi-đạo và ở một cao độ vừa đủ để làm crash.



Bỗng chiếc số một bốc ḿnh lên, trong lúc chiếc số hai “crashed” thật chính xác ngay trên lớp “bọt foam”. Tất cả chúng tôi đều nín thở, theo dơi chiếc phi-cơ lâm nạn lướt trên mặt phi-đạo, vừa mong cho người phi-công lâm nạn được an toàn, vừa thầm cảm phục tài nghệ của anh. Ra khỏi lớp bột chống hỏa trải lót đường, chiếc phi-cơ tiếp tục lướt tới với một tốc độ khá nhanh. Tướng Kỳ quay qua nói với Th/Tá Hồ Đăng Trí, sĩ-quan tùy-viên của ông, chạy xe ra phi-đạo, và nếu điều kiện an-phi cho phép, th́ chở người phi-công lâm nạn tới gặp Tướng Kỳ để ông mời anh một ly rượu mừng. Th/Tá Trí chưa kịp quay lưng th́ tất cả mọi người đứng trong hangar đều trợn mắt, há mồm nh́n chiếc phi-cơ cầy trên mặt nhựa. Những tia lửa từ bụng phi-cơ xẹt ra, bắn tung tóe như một cây pháo bông, rồi đâm thẳng vào ụ đất cuối đường bay, cạnh trạm tiếp liên của hăng “Hàng Không Việt Nam”. Một cột lửa bùng lên, rồi chiếc ghế ngồi của người phi-công phóng vút lên cao, nhưng dù chưa kịp mở, th́ chiếc ghế đă rơi ngay vào đống lửa bập bùng…Chiếc phi-cơ số một ṿng lại, bay sát mặt phi-đạo, lắc cánh, quằn quại gầm thét như một con măng hổ lạc bầy, làm một ṿng quay 360 độ trên đầu ngọn lửa, như để gởi lời chào vĩnh-biệt tới người bạn đồng hành vừa nằm xuống, rồi vụt bốc lên như cây pháo thăng thiên, cô đơn lao ḿnh vun vút, lẩn khuất sau những đám mây tang, để lại bầu trời hoang lạnh những âm-thanh phản hồi, gầm-gừ như tiếng sấm đầu mùa mưa…Mọi việc xẩy ra qúa nhanh, qúa bi tráng, làm chúng tôi không kịp đón nhận nó. Trên gương mặt phong trần của những người trai dạn dầy chinh chiến, hằn lên những nét kinh-hoàng. Gương mặt Tướng Kỳ đanh lại, cặp mắt ông trừng trừng nh́n vào khỏang không-gian vô tận, như bất chợt gặp lại những h́nh ảnh hăi hùng ngày nào, khi ông c̣n bay những “phi-vụ c̣ trắng” vượt biên, hằng đêm bay sâu trên vùng đất địch…Anh phi-công phản-lực F100 ơi, từ chiến trận nào anh trở về đây để được hỏa táng trên miền đất lạ. Dù rằng không có một lễ nghi quân cách, dù rằng không có những ṿng hoa tang phúng điếu, và tiếng kèn truy điệu cho anh, nhưng ở đây đă có những tấm chân t́nh của tri-kỷ, đang thành kính cúi đầu chiêm bái anh linh người tráng- sĩ vừa hy-sinh...Bây giờ là 6 giờ chiều, từ một nơi cách xa quê-hương anh cả một đại-dương ngút ngàn sóng nước, không có một người thân, không có bạn bè, mà chỉ có chúng tôi, những người cùng chung một chiến tuyến với anh, xin nguyện cầu cho anh đêm nay xoải cánh an toàn, bay về cơi vĩnh-hằng cao diệu vợi…

Chén rượu giang-hồ đậm t́nh tri-kỷ:

Đối với những người lính chiến như chúng tôi, dù ở đơn-vị hay cấp bậc nào đi chăng nữa, th́ cuộc sống cũng vô cùng bấp-bênh và ngắn ngủi. Mới chỉ buổi sáng đây thôi, c̣n thấy anh ồn ào cùng chúng bạn, để đến đêm về, ở một nơi nào đó có ánh đèn mờ ảo như muốn che dấu những nỗi kinh hoàng trong lửa đạn, đă thấy bùng lên câu thơ: “Đêm tráng-sĩ qua sông lần vĩnh biệt - Tưởng đang c̣n tiệc rượu lúc tàn canh”. Cho nên dù chỉ là một lần gặp gỡ t́nh cờ, cũng sẽ đem lại cho chúng tôi những kỷ-niệm chập-chùng khó quên…C̣n nhớ một lần tôi cùng Thặng (Fulro), Long (lăng quăng), và Phúc (cháy), đến dự đêm dạ vũ “Mây bốn phương trời” tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu-Bạc trong căn cứ KQ Tân-Sơn-Nhất. Trong đêm vui này, một số phi-công nghênh cản F4C từ hàng-không mẫu-hạm Midway cũng được mời về tham dự. Vừa bước vào pḥng đă thấy ông Hưng (phệ) chạy ra đón. Rồi ông dẫn chúng tôi lại ngồi cùng bàn với những “người khách đặc biệt” này. Tất cả đều đứng lên trong khi ông Hưng giới thiệu: “Đây là những hoa-tiêu F4C thuộc không-đoàn nghênh cản ngoài hạm đội số 7.” Rồi quay qua chúng tôi, ông nói với họ: “ C̣n đây là những phi-công khu-trục oanh tạc A1 của KLVNCH.” Chúng tôi trao đổi với nhau những tia nh́n đầy thiện cảm, cùng những cái xiết tay chặt chẽ thân t́nh như đă quen nhau tự thủa nào…Một ông Đại-Úy trẻ măng, mặc bộ đồ bay mầu cam, nắm tay tôi nói:

- Chúng tôi được nghe rất nhiều huyền-thoại về các bạn, những phi-công can đảm, chiến đấu hào hùng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn và nguy-hiểm. Đêm nay được gặp, thật là vinh hạnh.

Tôi bóp chặt tay anh cười nói:

- Chúng tôi cũng rất ngưỡng mộ các bạn, những “MiG Killer” của Hải-Không-Quân Hoa-Kỳ, hàng ngày vẫn b́nh thản “Đạp sóng đại-dương lướt gió ngàn”, quần thảo với phi-cơ và hỏa-tiễn địch trên ṿm trời lửa đạn.

Rồi những giọng cười như con lốc xoáy, bốc lên theo hơi rượu của những con người mà mới chỉ một lần đầu gặp gỡ, đă thấy “mến nhau qua phong độ, trọng nhau v́ tài”. Anh Khoa (Đen) hai tay xách hai chai Martel cổ lùn lừng lững đi tới, anh cất giọng hào-sảng nói:

- Đêm nay các cậu phải uống cho thật say đó nghe.

Tôi tiếp lời anh:

Say như tráng sĩ say hào khí
Tưới rượu hư không gột chiến bào
Trượng phu cất tiếng cười vang dội
Bầu trời rung chuyển cả trăng sao.

Anh ngửa mặt cười sảng-khoái, rồi mở chai rót rượu. Thặng (Fulro) với tay bấm nút chai soda, tưới những tia nước sủi bọt trắng xóa vào những chiếc ly thủy tinh. Tôi cười nói với Thặng:

- Rót nữa đi bạn : “Rót cho rượu tuôn như suối dồn thác đổ - Đă tiễn đưa đâu mà nói trường-đ́nh”.



Tất cả đều nâng ly, ngửa cổ uống cạn ly rượu giang-hồ, và nh́n nhau bằng những tia nh́n long lanh qua ánh mắt, rồi cùng cất tiếng cười vang, át cả tiếng nhạc của đêm liên-hoan…Đêm nay c̣n có thứ ngôn-ngữ nào diễn tả nổi tấm chân t́nh của tri-kỷ, và c̣n có men rượu nào sánh được với “men hào-khí” của chinh nhân…Bởi v́: “Ngày mai vào trận ai nào biết - Tráng-sĩ quay cuồng bom đạn rơi”…

Anh Khoa thân kính! Đă lâu lắm rồi, kể từ đêm tao ngộ với những cánh chim trời phiêu bạt tụ về, cùng anh bàn chuyện “chiến chinh” lần đó, chúng ḿnh chưa một lần gặp lại nhau, nhưng em vẫn nhớ cái dáng dấp hiên-ngang quen thuộc thủa nào của “người tráng-sĩ cô đơn lạc nẻo ḍng đời…” khi anh cùng Th/Sĩ N.V.Nhất đáp chiếc “Thần Phong 01” xuống Pleiku vào một buổi sáng mù sương, để gặp T/Tá Lê Bá Định và Tr/Tá Nguyễn văn Bá. Cuộc gặp gỡ bí-mật của những con người “giang hồ quen thói vẫy vùng” tuy thật ngắn ngủi, nhưng cũng đă làm “nghiêng ngả cả giải giang-hà dưới gót chân”.



…Ngày tháng vẫn lạnh lùng trôi…Tôi quên thế nào được h́nh ảnh chiếc H34/PĐ219 của Đại/Úy Nguyễn văn Thắng lừng-lững từ trên không như một khối sắt khổng lồ lao ḿnh xuống cơn băo lửa…Rồi anh Nghĩa (già) từ trong ḷng phi-cơ phóng ra, vội vă tháo dây dù cho tôi, vác tôi lên vai chạy dưới làn mưa đạn của quân thù tại chiến trường Benhet ngày nào…

…Tôi cũng c̣n nhớ rất rơ âm thanh tắc nghẹn trên tần-số của Th/Tá Hồng Khắc San, người phi-tuần trưởng gan lỳ của phi-tuần Thái Dương 51, khi chiếc số 2 của anh, Thiếu-Úy Dương Huỳnh-Kỳ, trầm ḿnh trong ngọn lửa mịt mùng theo với dàn bom napalm hai bên cánh, và thân xác người phi công tài hoa son trẻ của phi đoàn 530 đă được hỏa táng ngay trên đỉnh Charlie…Cùng trong khỏang thời-gian và không-gian đó, một cánh dù bung nở, mang theo người phi-công của phi-tuần kế tiếp, Thái-Dương 61, từ chiếc phi-cơ bốc cháy trên ṿm trời lửa đạn, về với những người bạn Nhẩy Dù, Biệt Động Quân đang quần thảo với địch quân nơi chiến địa của mùa Hè rực lửa năm xưa…Rồi chiếc UH1/PĐ229 của Tr/Úy Tuấn (Bocassa), Tr/Úy Xuân (tóc đỏ) bay tới, nghiêng ngả như con thuyền ngụp lặn trong cơn phong ba băo táp giữa biển khơi, thả sợi giây thừng cho tôi nắm lấy…Khoảng cách giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau chưa đầy một gang tay, mà sao tôi thấy nó dài như cả vạn dặm đường…Trong giây phút tưởng chừng như tuyệt vọng đó, th́ một phép lạ chợt đến. Người cơ-phi xạ-thủ dũng-cảm của phi-hành-đ̣an trực-thăng cấp cứu, từ trong khoang tầu hiện ra như một “Thiên Thần”, leo xuống sợi dây lơ lửng giữa trời, tḥng cánh tay rắn chắc cho tôi nắm lấy, và chúng tôi cùng đong đưa theo sợi dây, trước cặp mắt ngơ ngác của tử thần…Rồi cứ thế, chiếc phi-cơ “cứu tử” đưa tôi về căn cứ Vơ-Định, nơi có đơn-vị tiền phương của Lữ-Đoàn Dù trấn đóng. Sau khi thả tôi nằm trên tấm poncho dưới đất, các anh, những “Hiệp-Sĩ không gian” của vùng trời biên trấn, lại lạnh lùng quay lưng cất cánh, không để cho tôi có dịp gởi đến các anh một lời chào tạm biệt.

…Tôi quên thế nào được những cử chỉ vỗ về, chăm sóc của những người bạn đồng ngũ ngoài chiến trường. Th/Tá Phạm-Bính, PĐT/PĐ215 rót những liều thuốc tê vào tai tôi: “Ráng một chút nghe cưng, sắp xong rồi.” khi anh nắm chặt lấy hai cánh tay tôi cho Bác-Sĩ Hiệp, người y-sĩ trẻ của binh chủng nhẩy dù, khâu sống vết thương trên trán. Trong cơn mê mơ hồ thảng thốt, tôi nghe có tiếng cười đùa trao đổi giữa Th/Tá Huỳnh Hải-Hổ, người đang đè hai chân tôi, và vị Bác-Sĩ trẻ: “Cẩn thận nghe Bác-Sĩ, đừng để vết thẹo qúa lớn trên gương mặt đẹp trai của tráng-sĩ – Vâng, tôi chưa thấy người lính trận nào lại có một làn da trắng và mịn màng như ông Th/Tá này.”

…Rồi những ngày chinh chiến qua đi…Đă có biết bao nhiêu người bạn lạnh lùng quay lưng vượt “ḍng sông định mệnh”, để lại cho đời những luyến tiếc nhớ thương. Và cũng có biết bao nhiêu người bạn mới chỉ nghe danh, hoặc chỉ qua một lần gặp gỡ, mà t́nh tri-kỷ đă đậm đà đến tận thiên thu…

Bây giờ ngồi đây giữa cảnh đời luân-lạc, tôi nhớ đến những người của ngày xưa đó, mà thấy ḷng ḿnh chùng xuống…Giờ này các anh đang ở đâu, có phải các anh đang cô-đơn xoải cánh dưới bầu trời dông băo, hay đă dừng chân nơi chốn lạ, và đêm về các anh có nghe được những ưu-tư khắc khỏai thầm lặng của cố nhân…

…C̣n tôi vẫn nhớ ngày hôm ấy
Nhớ cả khung trời mây trắng bay
Rồi đây trên phiến thời-gian cũ
Tôi sẽ mang theo những tháng ngày.

Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Lake Tahoe. Những ngày cuối Đông!)

Chú-thích: (*) Công Công: Ngày xưa người ta gọi những viên hoạn quan, thái giám là “Công Công”.










---
This article comes from Cánh Thép
http://www.canhthep.com

        Thai Duong 530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh-Pleiku Air Base, Vietnam