Tiếng Việt, dễ mà khó
Nguyễn Hưng Quốc
Tiếng Việt vừa dễ vừa khó, đúng hơn,
dễ mà lại khó. Dễ đến độ rất
hiếm người Việt
Trước đây, có lần, đọc cuốn Trong Cơi
của Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên
cứu sử học, khảo cổ học và văn hoá dân
gian nổi tiếng ở trong nước, tới
đoạn ông bàn về hai chữ "làm thinh", tôi
ngỡ đă t́m thấy một phát hiện quan trọng.
Theo Trần Quốc Vượng, "thinh" là thanh, âm
thanh, hay là tiếng ồn. "Nín thinh" là kiềm
giữ tiếng động lại, là im lặng. Thế
nhưng "làm thinh" lại không có nghĩa là gây nên
tiếng động mà lại có nghĩa là... im lặng.
Cũng giống như chữ "nín thinh". Trần
Quốc Vượng xem đó như là một trong những
biểu hiện của Phật tính trong ngôn ngữ và
văn hoá Việt
Thú thực, đọc những đoạn phân tích như
thế, tôi cảm thấy mừng rỡ và thích thú vô
hạn.
Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, đọc bài viết
"T́m nguồn gốc một số từ ngữ
tiếng Việt qua các hiện tượng biến
đổi ngữ âm" của Lê Trung Hoa, tôi lại bàng
hoàng khám phá ra là chữ "làm thinh" thực chất
chỉ là biến âm của chữ "hàm thinh" trong
chữ Hán. "Hàm" có nghĩa là ngậm (như trong các
từ: hàm ân, hàm oan, hàm tiếu, hàm huyết phún nhân...).
"Hàm thinh" là ngậm âm thanh lại, không cho chúng phát
ra, tức là không nói, tức là... im lặng. (2) Y như
chữ "nín thinh". Nhưng sự giống nhau ở
đây chỉ là sự giống nhau của hai từ
đồng nghĩa, chứ chả có chút Phật tính hay
Trang Tử tính ǵ trong đó cả.
Tôi mới biết là ḿnh mừng hụt.
Một ví dụ khác: về hai chữ "vợ
chồng".
Trước đây, đă lâu lắm, đọc cuốn
Ngôn Ngữ và Thân Xác của Nguyễn Văn Trung, tôi
thấy tác giả giải thích hai chữ "vợ
chồng" đại khái như sau: "Chồng" là
chồng lên nhau, nằm lên nhau. C̣n chữ "vợ"?
Nguyễn Văn Trung chỉ viết bâng quơ, trong câu chú
thích in cuối trang: "chữ vợ phải chăng là
vơ, vớ, đọc trại đi, theo giọng
nặng; nếu thế, chữ vợ chỉ thị
việc quơ lấy quàng lên, vơ vào, phù hợp với
việc chồng lên trong hành động luyến ái?"
(tr. 40)
Đọc đoạn ấy, tôi hơi ngờ ngờ,
nhưng rồi cũng bỏ qua, không chú ư mấy. Gần
đây, tôi sực nhớ lại vấn đề ấy
khi đọc cuốn Phương Ngữ B́nh Trị Thiên của
Vơ Xuân Trang. Tôi được biết là ở B́nh Trị
Thiên, thay v́ nói cái "vai", người ta lại nói cái
"bai"; thay v́ nói đôi "vú", người ta
lại nói đôi "bụ"; thay v́ nói "vải",
người ta lại nói "bải"; thay v́ nói
"vá" áo, người ta nói "bá" áo; thay v́ nói
"vả" (vào miệng) , người ta lại nói
"bả" (vào miệng), v.v... Qua những sự hoán
chuyển giữa hai phụ âm V và B như thế, tự
dưng tôi nảy ra ư nghĩ: phải chăng nguyên uỷ
của chữ "vợ" là... bợ? "Vợ
chồng" thực ra là "bợ chồng"?
Tôi càng tin vào giả thuyết trên khi nhớ lại, trong
tiếng Việt hiện nay, có cả hàng trăm từ
nguyên thuỷ khởi đầu bằng phụ âm B đă
biến thành V như thế. Nhiều nhất là từ âm
Hán Việt chuyển sang âm Việt. Ví dụ: trong chữ
Hán, chữ "bái" sang tiếng Việt thành
"vái"; chữ "bản" sang tiếng Việt
thành "vốn" và "ván"; chữ "bích" sang
tiếng Việt thành "vách"; chữ "biên" sang
tiếng Việt thành "viền"; chữ
"bố" sang tiếng Việt thành "vải";
chữ "bút" sang tiếng Việt thành
"viết"; chữ "bà phạn" sang tiếng
Việt thành "và cơm", v.v...
Theo Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn Giáo Tŕnh Lịch
Sử Ngữ Âm Tiếng Việt (sơ thảo), quá tŕnh
hoán chuyển từ B đến V kéo dài khá lâu cho nên
hiện nay thỉnh thoảng cả hai biến thể B/V
vẫn c̣n tồn tại song song với nhau, như: băm
và vằm (thịt); be và ve (rượu hay thuốc); béo và
véo; bíu và víu, v.v...
Chúng ta biết là hiện tượng tồn tại song
song của hai biến thể như thế không phải
chỉ giới hạn trong hai phụ âm B và V. Theo nhiều
nhà ngôn ngữ học, ngày xưa, từ khoảng thế
kỷ 17 trở về trước, trong tiếng Việt
có một số phụ âm đôi như BL (blăng, blời...),
ML (mlầm) hay TL (tlánh). Đến khoảng thế kỷ 18,
các phụ âm đôi ấy dần dần rụng mất.
Điều đáng chú ư là khi những phụ âm đôi ấy
rụng đi th́ chúng lại tái sinh thành một số
phụ âm khác nhau. Ví dụ phụ âm đôi TL sẽ
biến thành TR hoặc L, do đó, hiện nay, chúng ta có một
số chữ có hai cách phát âm và hai cách viết khác hẳn
nhau, cùng tồn tại song song bên nhau, đó là các chữ
tránh và lánh; trộ và lộ, trồi và lồi, trêu và lêu,
trũng và lũng, trộn và lộn, trọn và lọn,
trệch và lệch, trèo và leo, tràn và lan, v.v... Trong khi đó
phụ âm đôi ML sẽ biến thành L hoặc NH, bởi
vậy, chúng ta cũng có một số từ tương
tự, như lầm và nhầm, lời và nhời, lẽ
và nhẽ, lát và nhát, lạt và nhạt, lớn và nhớn.(3)
Trong những cặp từ tương tự vừa
kể, có một số chữ dần dần bị xem là
phương ngữ hoặc là cách nói cổ, càng ngày càng ít
nghe, như các chữ Nhớn, Nhời, và Nhẽ. Thay vào
đó, chúng ta sẽ nói là lớn, lời và lẽ. Tuy nhiên,
những chữ khác th́ cho đến nay cũng vẫn c̣n
tồn tại khá phổ biến, ví dụ chúng ta có thể
nói là rượu lạt hoặc rượu nhạt; nói
lầm lẫn hoặc nhầm lẫn; nói một lát dao hay
một nhát dao đều được cả.
Đặt trong toàn cảnh mối quan hệ giữa hai
phụ âm B và V cũng như quá tŕnh biến đổi
phụ âm đầu như thế, chúng ta sẽ thấy
ngay giả thuyết cho nguồn gốc của chữ "vợ"
trong "vợ chồng" là "bợ" rất có
khả năng gần với sự thật. "Vợ
chồng" như thế, thực chất là "bợ
chồng". "Bợ": từ dưới nâng lên;
"chồng": từ trên úp xuống. Danh từ
"bợ chồng" diễn tả tư thế thân
mật giữa hai người nam nữ khi ăn ở
với nhau. Cách gọi tên khá thật thà như thế
kể cũng thú vị đấy chứ?
Qua các trường hợp biến đổi từ
"hàm thinh" thành "làm thinh" và từ "bợ
chồng" thành "vợ chồng", chúng ta tiếp
cận được một hiện tượng rất
phổ biến trong tiếng Việt: hiện tượng
biến âm. Biến âm không phải chỉ v́ nói ngọng,
kiểu "long lanh" thành "nong nanh" hay "nôn
nao" thành "lôn lao" như một số
người ở một số địa phương nào
đó. Biến âm cũng không phải chỉ v́ phương
ngữ, kiểu "về" thành "dề" như
ở miền Nam, hay "nhà" thành "dà" như
ở một số làng huyện ở miền Trung,
"trung trinh" thành "chung chinh" như ở
miền Bắc. Điều đáng nói hơn là những
hiện tượng biến âm xuất phát từ những
quy luật nội tại của ngôn ngữ, những
sự biến âm có mặt ở mọi vùng đất
nước và nếu không tự giác và tốn công truy
lục, chúng ta sẽ không thể nào tái hiện
được nguyên dạng của nó. Chúng ta dễ
ngỡ biến âm là chính âm. Dễ ngỡ nó tự nhiên là
thế. Ví dụ, để diễn tả tâm sự
buồn nào đó dần dần giảm nhẹ đi, chúng
ta hay dùng chữ "nguôi ngoai". Đúng ra là "nguôi
hoai". Trong các từ điển cổ, "hoai" có
nghĩa là phai nhạt. Nghĩa ấy, cho đến bây
giờ chúng ta vẫn dùng trong chữ "phân đă
hoai". "Nguôi hoai" là từ ghép chỉ sự phai
dần của một nỗi buồn, một niềm
đau. Tương tự như vậy, chữ
"yếu ớt" chúng ta hay dùng ngày nay là do chữ
"yếu nớt". "Ớt" th́ không có nghĩa
ǵ cả. Trong khi "nớt" có nghĩa là sinh thiếu
tháng, vẫn c̣n dùng trong từ "non nớt".
"Yếu nớt", do đó, có nghĩa là yếu
đuối, là non nớt. Chữ "nói mớ"
thật ra là biến âm của chữ "nói mơ", nói
trong giấc mơ. "Nước miếng" thật ra
là biến âm của "nước miệng",
nước chảy ra từ miệng, cùng cách kết
cấu với các chữ nước mắt hay nước
mũi. Chữ "to tát" hiện nay tất cả các
từ điển đều viết với chữ T
ở cuối, TÁT; nhưng trong Đại Nam quốc âm tự
vị của Huỳnh Tịnh Của th́ lại viết
chữ TÁC kết thúc bằng C: "to tác", kèm theo
lời định nghĩa là: thô kệch, lớn tác. Mà
chúng ta đều biết chữ TÁC có nghĩa là tuổi
hay vóc dáng, như trong các từ tuổi tác, tuổi cao tác
lớn, hay ngày xưa người ta nói bạn tác, tức
bạn hữu; trang tác, tức cùng lứa, cùng tuổi
với nhau. (4)
Các con số đếm, nơi rất cần sự chính
xác, cũng không thoát khỏi luật biến âm. Như
số 1, chẳng hạn. Đứng một ḿnh là một.
Đứng trước các con số khác cũng là một.
Nhưng khi đứng sau các con số khác, trừ số
10, nó lại biến thành "mốt": hai mươi
mốt; ba mươi mốt, bốn mươi mốt.
Những chữ "mốt" ấy chính là biến âm
của "một". Nhưng không phải lúc nào
"mốt" cũng có nghĩa là một: "Mốt"
trong một trăm mốt hay trong một ngàn mốt,
một triệu mốt... không phải là một. Con số
5 cũng vậy. Đứng một ḿnh là năm. Đứng
trước các số khác cũng là năm. Nhưng khi
đứng sau các số, từ 1 đến 9, nó lại
biến thành "lăm": mười lăm, hai
mươi lăm... Con số hai mươi lăm ấy
lại được biến âm thêm một lần
nữa, thành hăm nhăm. Số ba mươi lăm
cũng thường được biến âm thành băm nhăm.
Từ số bốn mươi lăm trở lên th́ chỉ
có một cách rút gọn là bốn lăm; năm lăm, sáu
lăm, bảy lăm, tám lăm, và chín lăm chứ không có
kiểu biến âm như hăm nhăm và băm nhăm. Con
số 10, cũng vậy. 10 là mười. Nhưng từ 20
trở lên th́ "mười" biến thành
"mươi”: hai mươi, ba mươi, bốn
mươi... Dấu huyền bị biến mất. Có
điều, "mươi" không phải lúc nào cũng
có nghĩa là mười. Trong nhóm từ "mươi cái
áo", chẳng hạn, "mươi" lớn hơn
hoặc nhỏ hơn mười: một con số
phỏng định, ước chừng, bâng quơ.
Con số c̣n thay đổi được, huống ǵ
những từ khác. Như từ "không", chẳng
hạn. Phủ định điều ǵ, người ta có
thể nói "không", mà cũng có thể nói
"hông", nói "khổng", nói "hổng".
Xuất hiện trong câu nghi vấn, chữ "không"
ấy có thể có thêm một biến âm khác là "hôn":
"nghe hôn?" Chưa hết. Một số âm vị trong
cụm "nghe hôn" ấy bị nuốt đi; "nghe
hôn" biến thành "nghen", rồi đến
lượt nó, "nghen" lại biến thành
"nghén" hay bị rút gọn lần nữa, thành
"nhen", rồi "hen", rồi "hén",
rồi "nhe", v.v...
Như vậy, biện pháp biến âm trở thành một
biện pháp tạo từ. Đă có từ "vậy",
chỉ cần thay dấu nặng bằng dấu huyền,
chúng ta có từ mới: "vầy" (như vầy
này!). Đă có từ "lui hui", người ta tạo thêm
các chữ "lúi húi" rồi "lụi hụi". Đă
có từ "chừ bự", người ta tạo thêm
các từ mới: chư bư, chừ bư, chừ
bử, chử bử, chứ bứ, chự bự. Đă có
"trật lất", người ta tạo thêm:
trết lết, trét lét, trớt lớt, trớt huớt...
(5) Đă có từ "ngoại" vay mượn từ
chữ Hán, chúng ta tạo thêm hay từ khác: "ngoài"
để các quan hệ không gian cũng như thời gian
và "ngoái" để chỉ quan hệ về thời
gian: "năm ngoái".
Biện pháp biến âm như vậy đă dẫn
đến một hiện tượng khá thú vị trong
tiếng Việt: hiện tượng từ tương
tự, tức những từ hao hao gần nhau về
cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa, chẳng hạn:
các chữ bớt và ngớt; đớp, tợp, hớp và
đợp; bẹp, xẹp, lép, khép, nép và nẹp; khan, khàn
và khản; xẻ, chẻ, bẻ và xé; xoăn, xoắn,
quăn và quắn; tụt, rụt và thụt; véo, nhéo, và béo;
v.v...
Các từ tương tự ấy có khi khác nhau về
từ loại nhưng lại tương thông tương
ứng với nhau về ư nghĩa, chẳng hạn: chúng ta
có cái nẹp để kẹp, cái nêm để chêm, cái nan
để đan, cái mơ để gơ, cái nệm để
đệm, cái vú để bú; hoặc chúng ta cưa th́ thành
khứa, rung th́ rụng, phân th́ có từng phần, dựng
th́ đứng, thắt th́ chặt, đập th́ giập,
d́m th́ ch́m, ép th́ ẹp, dứt th́ đứt, chia th́ ĺa,
gạn th́ cạn, v.v....
Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, t́nh
cờ tôi lại chú ư đến chữ "đút"
trong một câu văn không có ǵ đặc biệt: "Chị
ấy đút vội lá thư vào túi quần..." Từ
chữ "đút" ấy, tôi chợt liên tưởng
đến chữ "rút": cả hai từ làm thành
một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).
Điều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có
phần vần giống nhau: "-ÚT". Chúng chỉ khác
nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt
đầu bằng phụ âm "đ-" (đút) và
một chữ bằng phụ âm "r-" (rút). Hơn
nữa, cả từ "đút" lẫn từ
"rút", tuy phản nghĩa, nhưng lại có một
điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ
sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác.
"Đút" cái ǵ vào túi hay "rút" cái ǵ từ túi ra
cũng đều là sự chuyển động từ
không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc
ngược lại.
Tôi nghĩ ngay đến những động từ có
vần "-ÚT" khác trong tiếng Việt và thấy có
khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự.
"Sút" là động tác đưa bóng vào lưới.
"Hút" là động tác đưa nước hoặc
không khí vào miệng. "Mút" cũng là động tác
đưa cái ǵ vào miệng, nhưng khác "hút" ở
chỗ vật thể được "mút"
thường là cái ǵ đặc. "Trút" là đổ
cái ǵ xuống. "Vút" là bay từ dưới lên trên. "Cút"
là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua
đuổi. "Nút" hay "gút" là cái ǵ chặn
lại, phân làm hai không gian khác nhau.
Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ư
nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi.
"Trụt" hay "tụt" là di chuyển từ
trên xuống dưới. "Vụt" là di chuyển
thật nhanh, thường là theo chiều ngang.
"Lụt" là nước dâng lên quá một giới
hạn không gian nào đó. "Cụt" là bị cắt
ngang, không cho phát triển trong không gian. "Đụt"
(mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn,
để tránh mưa ngoài trời. Vân vân.
Nếu những động từ có vần "-ÚT"
thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc
việc ngăn chận quá tŕnh di chuyển ấy) giữa
hai không gian th́ những động từ có vần
"-UN" lại ám chỉ việc dồn ứ lại
thành cục trong một không gian nhất định nào
đó, thường là có giới hạn. "Ùn",
"chùn", "dùn", hay "đùn" đều có
nghĩa như thế. "Thun" hay "chun" cũng
như thế, đều chỉ cái ǵ bị rút, bị co.
"Cùn" là bẹt ra. "Hùn" là góp lại.
"Vun" là gom vào. "Lún" hay "lụn" là
bẹp xuống. Cả những chữ như "lùn"
hay (cụt) "lủn", (ngắn) "ngủn",
"lũn cũn"... cũng đều ám chỉ cái ǵ
bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại.
Với cách phân tích như vậy, nếu đọc
thật kỹ và thật chậm các cuốn từ
điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy
có khá nhiều khuôn vần h́nh như có một ư nghĩa
chung. Chẳng hạn, phần lớn các động từ
hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều
chỉ những động tác hay những vật thể
hẹp, thấp, phẳng. "Kẹt" là mắc vào
giữa hai vật ǵ; "chẹt" là bị cái ǵ ép
lại. "Dẹt" là mỏng và phẳng;
"tẹt" là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt);
"bét" là nát, dí sát xuống đất; "đét"
là gầy, mỏng và lép. Những dộng từ kết thúc
bằng âm EN thường chỉ các động tác đi
qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như:
"chen", "chẹn", "chèn", "len",
"men", "nghẽn", "nghẹn",
"nén". Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI th́
chỉ những trạng thái khó chịu, như "tức
tối", "bức bối", "bực
bội", "nực nội", "nhức
nhối", v.v...
Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan
trọng:
Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát
hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta
thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những
quy luật bí ẩn lạ lùng. Tính chất bí ẩn ấy
có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu t́m kiếm cả
đời cũng không hết được. Điều này
khiến cho không ai có thể an tâm là ḿnh am tường
tiếng Việt. Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ
thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm
tưởng ngôn ngữ là một cái ǵ lạ lùng vô hạn.
Thứ hai, v́ có những quy luật, những điểm
chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên
việc học tiếng Việt không quá khó khăn. Nói chung,
người Việt Nam đều có khả năng đoán
được ư nghĩa của phần lớn các chữ
mới lạ họ gặp lần đầu. Lần
đầu gặp chữ "thun lủn", chúng ta
cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái ǵ rất ngắn. Lư do là
v́ chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có
vần "UN" vừa kể ở trên: cụt ngủn,
ngắn ngủn, v.v... Lần đầu gặp chữ
"dập dềnh", chúng ta cũng có thể đoán là
nó ám chỉ một cái ǵ trồi lên trụt xuống do
sự liên tưởng đến những chữ có khuôn
vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp
khểnh, tập tễnh, v.v...
Nói tiếng Việt vừa dễ vừa khó là v́ thế.
Melbourne 21.10.2000
******************
Chú thích :
1. Trần Quốc Vượng (1993), Trong Cơi, Garden Grove:
Trăm Hoa, tr. 169.
2. Lê Trung Hoa, “T́m nguồn gốc một số từ
ngữ tiếng Việt qua các hiện tượng biến
đổi ngữ âm”, in trong cuốn Những vấn
đề văn hoá, văn học và ngôn ngữ học
(nhiều tác giả), nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội,
1999: 211-225.
3. Xem bài "Vài chuyển biến trong phụ âm đầu
tiếng Việt và các hiện tượng láy từ liên
hệ" của Nguyễn Phú Phong trên Tập san Khoa
Học Xă Hội (Paris) số 3 năm 1977, tr. 73-80.
4. Một số ví dụ trong đoạn này lấy từ
bài viết của Lê Trung Hoa theo sách dẫn trên.
5. Biện pháp biến âm này đặc biệt thông dụng
trong phương ngữ miền Nam. Có thể xem thêm
cuốn Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ
của Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức và Nguyễn Công
Khai, nxb Thành Phố ****, 1994.
Nguồn: Văn Học, số 193, tháng 5.2002