 |
|
|
 |
Món Nợ Lương Tâm
Chúng ta trốn
đi như tên đào ngũ
Nhưng trên
lưng của cải đã chất đầy
Người
chiến binh vẫn nằm bên ụ súng
Tạc đạn
cuối cùng đành nổ trong tay
Khi những
vì sao mọc trên cổ áo
Có khi nào anh
tự hỏi vì sao
Ôi những
thân người phơi ngoài trận mạc
Những khăn
tang vội vả quấn trên đầu
Ta nguyên vẹn
từ hình hài răng tóc
Của cải
còn từ sợi chỉ cây kim
Khi cả đất
trời tự nhiên đổ nát
Biển dâng
cao và cả núi non chìm
Con cái ta, những
tiên đồng ngọc nữ
Người
yêu muôn đời ích tử vượng phu
Ta đang sống
ở trong vùng ánh sáng
Mà quê hương
vẫn trong đám mây mù
Bọn chúng
ta hèn như bầy thỏ đế
Khổ đau chia, khi sung sướng một mình
Lúc lửa đỏ
bèn cao bay xa chạy
Còn nghĩ gì
nghĩa huynh đệ chi binh
Có những
món nợ chưa hề trả được
Ta đã quên
hay còn giả vờ quên
Bởi người
chết không bao giờ thức dậy
Kẻ sống
còn không dại cũng thành điên
Ta nợ những
người chết sông chết biển
Nợ những
người ở lại để ta đi
Suốt đời
ta luôn khôn lanh láu cá
Vẫn nợ
biết bao kẻ chẳng được gì
Nợ những
người phế binh lê la kiếm sống
Nợ lũ
cháu ta liếm lá đầu đường
Nợ những
người em thất thân làm đĩ
Nợ nỗi
nhục nhằn dày xéo quê hương
Ta còn nợ những nấm mồ thất lạc
Nợ máu xương
rải rác giữa đồng hoang
Nợ những
mẹ già suốt đời bất hạnh
Đang còng
lưng đi mót lúa đầu làng
Ta như kẻ
chăn chiên quay đầu chạy
Bỏ mặc
bầy chiên cho lũ sói rừng
Ta như tên
lái buôn thường biển lận
Mà món hời
đã thủ sẵn trong lưng
Ta tự hào
cho mình là tốt số
Vẫn thường
làm kẻ lội nước đi sau
Thật ra ta
chỉ là phường bất nghĩa
Khi có ăn
vẫn xếp sẵn hàng đầu!
Ôi những
món nợ chẳng hề nhắc đến
Không có người
sao ta có hôm nay
Lương
tâm ngủ hay lương tâm còn thức
Người
đang đêm sao ta lại có ngày
Lúc ta chết
vẫn không hề nhắm mắt
Vì nợ nần
chưa thức được lương tri
Bao người
sống ở dương gian réo gọi
Bao vong hồn
đứng đợi ở âm ty?
Huy Phương
(Một
câu chuyện hoàn toàn có thật. Tác giả xin được kể lại
nhân
dịp 30 năm từ ngày miền Nam thất thủ) |
Phạm Tín An Ninh
Những năm
"cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại.
Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên
Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây
là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn
20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi
được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ
huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam,
chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn
gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập
trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào
một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán
bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một
sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy
là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định,
buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở
nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một
suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế
nào cho đủ?
Nhưng bất
ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ
cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một
giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn
văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh
đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một
tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".
Tôi đang ngồi
hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới
biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết
đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa
đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh
nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng
giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán
bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung
đoàn mấy.
- Trung Đoàn
44.
- Vậy anh
có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo
đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất
cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em,
thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy
lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán
bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung
đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo
rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy
đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc.
Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh
bắt làm tù binh.
- Sau đó cán
bộ được trao trả? tôi hỏi.
- Tôi bị thương
nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về
quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả
tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó,
miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi
láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được
anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào,
anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực
ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh
của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều
gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường
nói:
- Tôi rất
đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều
là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không
trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ
có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt.
Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh
em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều
người đứng không vững.
Một buổi
chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng
trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng
như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người
mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến
chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó,
như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo
nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để
một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị
bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ
kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh
em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng
chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh
em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa
xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng
toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh
chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp
"Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống
đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn
cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn
bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố
đã đào sẵn.
Dường
như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no
sắn-
Không biết
tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại
là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần
ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
- Anh em làm việc
vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian
cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp
Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với
anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài
ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với
anh em:
- Lần bị
thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng,
lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống.
Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị
của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận
tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi
khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh
viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị
trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải
vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi
trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá
săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ,
mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để
được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc
lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết
thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về
quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác
sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người
đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương
binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết
thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh
viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm
xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi.
Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng
nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang
ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng
giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
- Khi về lại
ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.
- Ngay sau khi được
trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu
mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải
tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học
tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của
các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi
ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi
cho đến hôm nay.
Thời gian
vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên
Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi
sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người
đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một
cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em
nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa
mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại,
đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước
cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền
nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn
cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai
ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu
hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu
vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng
đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng
cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn
Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất
cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy
đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi
những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ
Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa
xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới
bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng,
phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được
những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu
thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời
còn lại của mình.
Bốn anh em,
những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần
nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong
tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi,
nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm
lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh
đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm
theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương.
Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi,
lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về
kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn
Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh
bên Ấn Độ.
Bẵng đi
vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm
tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng
đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ
chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan,
nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm,
nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp
bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm
nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với
nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm
du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại
Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy
cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học
ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội.
Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn
bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một
vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị
anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng,
xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở
Đông Đức.
Sau ngày bức
tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức
(Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn
sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc
được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết
cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được
du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng
tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước
kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo
sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được
một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước
Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp
xúc một ai.
Sau một thời
gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm
gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang
đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan
trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở
trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng
800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để
tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy
nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm
anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn
tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng
năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ,
Hoàng Liên Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách
để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện
làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng
sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên
Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ
lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng
không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng
lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là
nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy
vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian
trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập
vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện
anh Thà.
Bỗng một
hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc.
Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài
cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại
thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên
kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất
lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần,
với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi,
cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu
là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng.
Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu
giây, cô gái lên tiếng:
- Bác có còn nhớ
ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà, Nguyễn
văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ, ông
Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác
ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số
phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại,
và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo
lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp
Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị
em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo
làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được
chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở
lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu
hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng,
quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương,
đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ
cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em
cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một
người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít,
chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu
em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc
lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị
nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô
Hà gọi điện thoại cho tôi.
- Bây giờ
cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang
trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết
phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách
nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi
cho bác.
- Ba cháu bây giờ
làm gì?
- Ông bị ốm
nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ
nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm
tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số
điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em
trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày
rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới
một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới
đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không
quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan.
Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành
tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng,
chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo
sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt
nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học
tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch
cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan
thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã
thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của
nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được
mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát.
Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm
mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm
vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ
nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu
xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang
hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi
tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi
vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường,
nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp
được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự
xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho
tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng
rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong
trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện
đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh
ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc
này.
Anh đưa
tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh.
Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước
khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai
chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển
về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường,
vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ
tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một
tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo
trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang
được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh,
em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.
"Các Anh thân quí,
Khi ngồi
viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn
nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không
ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi
về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn
ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của
Các-Mác: "Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của
đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước
một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng
đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che
đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi,
vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một
thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
Chúng tôi
mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù
tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn
nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên
các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị
nào đó của kiếp con người.
Phần
tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị
điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng
Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một
công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên
về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh
tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
Hơn
ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà
gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến
hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm,
nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ
ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả
được cho các anh đây.
Tôi biết
mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được
một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá
và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ,
cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được
chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn
khổ cả nhân gian..."
* * * * *
Không
ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được
từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối,
anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến
tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ
đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc,
và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ
kéo dài cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh
Subject: |
Giờ Thứ 25 Của Cuộc Chiến 1954-1975 |
|
Author: |
comay |
|
Pha.m Ba' Hoa
Dẫn chuyện.
Ngày 7 tháng 1 năm 1975,
toàn tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản. Tổng Cục Tiếp Vận chỉ
thị Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận hằng ngày vận chuyển hàng tiếp liệu
loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu), và loại 5 (đạn
dược chất nổ) từ Qui Nhơn lên Plei Ku, dự trữ cho khoảng 20.000 quân phòng
thủ Plei Ku, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II, Sư Ðoàn 2 Không Quân, nhiều
đơn vị tác chiến, và đơn vị yểm trợ tác chiến đồn trú.
Ngày
13 tháng 3 năm 1975, toàn tỉnh Darlac vào tay quân cộng sản. Trong cuộc họp tối mật
tại bán đảo Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975, Tổng Thống ra lệnh Quân Ðoàn II rút
bỏ Kon Tum, Plei Ku, và Phú Bổn, đem lực lượng xuống Nha Trang chuẩn bị
tái chiếm Ban Mê Thuột và toàn tỉnh Darlac, vì không đủ lực lượng bảo
vệ toàn bộ Cao Nguyên.
Ngày 17 tháng 3 năm 1975, cuộc rút quân khỏi Cao Nguyên theo đường
liên tỉnh lộ 7 xuống Tuy Hòa bị thất bại nặng nề, đến mức
không thể phản công vào Ban Mê Thuột nữa! Không biết có phải do sự thất bại
chưa từng thấy này đã cuốn theo những cuộc rút quân từ Quảng trị
, Huế, Ðà Nẳng, và đến tận Hàm Tân hay không, nhưng có điều chắc chắn
là các đại đơn vị và lực lượng địa phương đã rút bỏ
những vùng lãnh thổ đó, mà không có một trận chiến nào ngăn chận quân cộng
sản cả. Tại thủ đô Sài Gòn, ngày 21 tháng 4 năm 1975, TổngThống Nguyễn
Văn Thiệu tuyên bố từ chức sau khi cáo giác Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam. Theo
Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nhậm chức Tổng Thống,
trong khi Ðại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố tự nguyện nhận chức
Tổng Thống, vì ông có khả năng thương lượng với Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam để thành lập chánh phủ liên hiệp, được hiểu là chấm
dứt chiến tranh trong hòa bình. Cuối cùng, Quốc Hội lưỡng viện, trong một
phiên họp khẩn cấp đã quyết định Tổng Thống Trần Văn Hương
trao quyền cho Ðại Tướng hồi hưu Dương Văn Minh, và đã thực hiện
cuộc trao quyền Tổng Thống vào chiều 28 tháng 4 năm 1975.
Vào chuyện.
Từ
sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hằng ngày, trước đầu
giờ và sau cuối giờ làm việc, tôi thường lên văn phòng Trung Tướng Ðồng
Văn Khuyên để theo dõi và trao đổi tình hình. Qua câu chuyện trao đổi mang tính
cách tâm tình với nhau hơn là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho
Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Xin mời quí vị quí bạn
vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa
nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu,
tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:
-
Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ
Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ
một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn -
- Ông ta muốn ám chỉ Trung
Tướng phải không? -
- Tôi cũng nghĩ vậy -
- Trung Tướng có nói gì
không? -
- Không -
- Ðến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?
-
Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục
Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn
Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong
túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có
thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ,
ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc,
chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:
- Tôi
đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ
không an toàn nếu như tôi khước từ di tản -
- Thiếu Tướng Smith
có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng? -
- Ổng được lệnh
từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi -
- Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi
vào lúc nào không Trung Tướng? -
Trung Tướng khuyên buông thỏng:
- Giờ thứ
25 -
- Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không? -
- Giờ
đó sẽ được quyết định từ Pentagon -
Sáng ngày 29 tháng 4 năm
1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài
phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ
các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa.
Ngay sau bản tin ngắn
ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân
Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Ðội 7 ngoài khơi
Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng
Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ,
tọa lạc trên đại lộ Thống Nhất.
Tôi xin dừng ở đây để
thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã
thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Ðại Tá Nguyễn Linh
Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào giữa
tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu
Ðại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu
Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Ðôn dùng cơm,
để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều
là bạn thâm giao của cựu Ðại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có
đoạn cựu Ðại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:
-
Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về
nước? -
- "Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn đuổi Mỹ là do Ðại
Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến -
Phần cuối
câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy là Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống
cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà
chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài
phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ từ Hạm Ðội 7 của họ
từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó
túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm
chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường
Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975,
để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác
định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy
mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy.
Vẫn
sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng
Ðồng Văn Khuyên, để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ
25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng
Hòa trong vòng 48 tiếng đồng hồ!
Trở về văn phòng, đứng ở
lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa
khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn
Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người
chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càn chân trực thăng
chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh
với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh
đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn
lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân
cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua
trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở chổ là họ còn
chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những
người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh
trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước
họ ...". Thật lòng mà nói, lúc ấy tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi
trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ
như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc
đời, mặc dù sự thật đó đang xảy ra trước mắt tôi!
Không
biết có phải là khi một người có những suy tư lo nghĩ trong một mức
độ nào đó thì họ còn kiểm soát được, có nghĩa là họ vẫn còn suy
tư lo nghĩ, nhưng khi điều suy tư lo nghĩ đó vượt quá mức kiểm
soát thì họ trở nên bình thản trước sự việc chăng? Nếu trong khoa tâm
lý và khoa dịch lý có nói đến trường hợp như vậy, thì tôi đang trong tình
trạng vượt quá mức kiểm soát đó. Ðứng nhìn cấp trên tôi, nhìn các đồng
đội tôi, đang bỏ chạy mà tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì
nữa! Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn
Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn
tiến, Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận
điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút
về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Ðiện thoại
xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên
trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước.
Ông lên xe, nhìn thẳng phía trước, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ
của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?".
Ông
không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan
tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông,
rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì
đang xảy ra. Nếu tôi nhìn không lầm, thì Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động
nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn
đối với Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ
biệt, một lời từ biệt với biết bao hiểm nguy cho người đi
lẫn người chưa đi!
Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975,
và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của giờ thứ 25!
Khoảng hai
tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng
Ðồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:
- Trình Ðại Tá, Trung Tướng đã vào
gặp Thiếu Tướng Smith rồi -
- Anh đang ở đâu vậy? -
- Tôi
đang ở nhà tôi -
- Ủa, anh không đi sao? -
- Dạ không Ðại Tá -
- Anh
có thể cho tôi biết là sau khi rời chổ tôi thì Trung Tướng đi những đâu
không? -
- Rời văn phòng Ðại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái
xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng
số 3 ra phía đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây
có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Ði được
một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo
tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Ði bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên
Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn
phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà -
- Anh trông thấy nhiều người
trong đó chớ? -
- Ðông lắm Ðại Tá ơi! Ðông nghẹt người lận-
-
Cám ơn anh nghe, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào là mừng ngày ấy
thôi. Chào anh nhé -
Vậy là, quí vị lãnh đạo vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo
quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội,
đã lần lượt "rời bỏ Việt Nam" gần như theo hệ thống quân giai
cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy:
- Trung Tướng Nguyễn
Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ
"bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng
Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Ðội, lên phi cơ đi ngoại quốc!
-
Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng
kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, lên phi cơ đi ngoại quốc!
- Rồi Ðại
Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc!
- Ðầu giờ
thứ 25, Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham
Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ
đi ngoại quốc!
Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ
Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để "đi ngoại quốc", thì quí vị
Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng
ra đi!
Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa
ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất
cứ một vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng
Ðạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công
chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không
còn cấp chỉ huy, nên họ đành phải quyết định: Tự động tan hàng!
Tôi
điện thoại cho Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài (con rể của Tổng Thống Dương
Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về
Phủ Tổng Thống:
- Anh Ðài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến
lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai
trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống
cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng
Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu
nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Ðô làm việc,
vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Ðô và một phần lực lượng
của Quân Ðoàn III thôi-
- Ðược rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện
thoại anh -
Một lúc sau, Ðại Tá Ðài gọi tôi:
- "Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ
chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham
Mưu. Anh yên tâm -
Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục
Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Ðiện Toán Tiếp Vận,
Chỉ Huy Trưởng trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm
lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục
Trưởng Cục Quân Vận (Ðại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục
Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục
Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch. Tôi vào đề ngay:
- Trong trách nhiệm
Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và
các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình
hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng
sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Ðiều đó cho phép dự đoán là
chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực
lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả
Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Ðoàn 106 Biệt Ðộng Quân mới
thành lập với Ðại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Ðại
Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Ðại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng,
cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân cùng với
vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận,
thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong
Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi.
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm
Ðiện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục thì tôi nghĩ là các bạn
biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn
tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá
trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục.
Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị,
chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến
với mình trong những ngày tháng sắp tới -
Sở dĩ phải nói lời chào ngay
vì tôi thấy Ðại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp tức
khắc. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Ðại Tá Cao Văn Phước,
Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Ðại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Ðoàn
Vận Tải và đi rồi.
Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng
Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Ðoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng
Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng
lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ
Tổng Tham Mưu. Và một vài Ðại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Ðại Tá Nguyễn
Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Ðại
Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:
-
Chào Trung Tướng -
- Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy
hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại
của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của
mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc -
- Thưa Trung
Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong
khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy
dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi,
thưa Trung Tướng -
- Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn
vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh -
- Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả
những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy.
Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn
Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận,
vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ
này, thưa Trung Tướng -
- Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm
nay -
- Vâng. Chào Trung Tướng -
Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn
Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế
đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập
ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông
đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ
nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Ðời
Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần văn Ân, có lần nói
với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và
ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng
nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của
ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng
Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị
Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong
những trường hợp như vậy ông rất thích được phóng viên báo chí tiếp
xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm,
và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường.
Tôi
trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã thông tin cho các vị
chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm
trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức
viết tay lệnh bổ nhiệm Ðại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng
Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân
Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị
Cục phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.
- Bây giờ xin phép anh tôi về
nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào
xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết -
-
Ðược rồi, anh về đi. Anh có cần xe mở đường không vì đường
phố đông nghẹt người với xe cộ đó? -
- Cám ơn anh. Không cần
đâu anh -
Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn
loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng
hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy
loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn,
những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để
từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần
khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để
sẳn sàng tấn công các đơn vị Cộng sản nếu như trực thăng vận
tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản
tua tủa vọt lên khoảng không gian nhỏ bé vừa tối lại vừa sáng!
Trong
những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ
lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng
động cơ phản lực chiến đấu, từng chiếc, từng đoàn, xé
không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được
các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như
vắng âm thanh đó thì họ cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời
gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh
dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến
đấu vì Dân Chủ Tự Do!
Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm
mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi có
hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ
xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy. Tôi xuống xe và chen nhau từng
bước giữa khối người là người mới vào được trong khu cư
xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư
xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục
Tiếp Vận:
- Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư
xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi
. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận
anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây
giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm
nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp
thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm -
- Ðược rồi. Có gì tôi gọi anh -
Vài
trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá
nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc
là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng
đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám
(đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng
đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.
Gần nửa đêm, Ðại Tá Trương
Ðình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi: - Trình với
anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục
hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền
cho anh em theo họ -
- Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận
chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được.
Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm
quyền. Anh hiểu tôi rồi hén -
Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện
thoại (nhà tôi) reo:
- Ðại Tá Hoa tôi nghe -
- Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc
nảy, Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ
liên lạc với anh chưa? -
- Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu
Trưởng Quân Ðoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng
-
- Cố gắng nghe anh Hoa -
- Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều
qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp
tục được nữa, thưa Trung Tướng -
Khoảng 3 giờ sáng ngày 30
tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều
qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp
Vận điện thoại tôi:
- Thưa Ðại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã
lên xe đi rồi -
- Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy
anh? -
- Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng chỉ đi tay không chớ không
xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến)
theo nữa -
- Thôi được. Sáng sáng một chút, tôi tìm cách đến Tổng Cục
hẳn hay -
Tiếp đó điện thoại lại reo:
- Ðại Tá Hoa tôi nghe -
-
Ðài đây anh (Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài). Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975) "Ông Già" sẽ
công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe - - Nhưng mà nội
dung giải pháp là gì? -
- Trung lập, như tôi nói với anh đó -
- Vậy là tôi
chuẩn bị. Cám ơn anh -
Ðến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến
2 điều cho vấn đề được rõ thêm.
Ðiều thứ nhất. Khoảng
năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Ðài tại thành phố Houston, tiểu bang
Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như
trong quyển Ðôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng
sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 thì anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ
của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu
tiên tôi "bị" ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng
Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện
thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những
âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ
cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây
theo trí nhớ của tôi.
Và điều thứ hai. Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức
là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung
lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước
khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi.
Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc
C130 sang Singapore để đi Úc Ðại Lợi, vì tôi được sự giúp đở
của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc
với tòa đại sứ Úc tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng
ngoặc.
Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở
thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người
đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối
dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến
Tổng Tham Mưu. Ðến, nhưng không được phép vào.
Chuyện như thế
này: "Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng
Ðại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung
Tướng Vĩnh Lộc cử Ðại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội-
giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết.
Ðại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu,
không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng
Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong
cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng.
Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không
ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:
- Ðại Tá thông cảm, vì lệnh
của Ðại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành -
- Tôi hiểu, và bây giờ
Ðại Tá Thăng ở đâu vậy anh? -
- Dạ Ðại Tá Thăng dường như
lên văn phòng Trung Tướng rồi Ðại Tá -
- Thôi được. Chốc nữa
Ðại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào
được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Ðô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe -
-
Ðại Tá thông cảm cho tôi nghe Ðại Tá -
- Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh
đừng bận tâm. Tôi đi đây -
Ðạn đại bác của quân cộng sản
nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng
Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh.
Sang trại
Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Ðại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng
Biệt Khu Thủ Ðô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết
vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu
có ai gọi.
Trung Tướng Vĩnh Lộc điện thoại cho tôi, ông đồng
ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Ðô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận.
Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Ðộc Lập để dự lễ ra mắt
chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc
cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm
qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời đối
với các vị ấy. Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi
ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là
18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày -tôi
nghĩ- ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng có trách nhiệm về cái chết
tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người!
Tại Bộ
Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (có biệt danh là Minh
đờn), Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát
-người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19/02/1965 thất bại- được
Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu, Chuẩn
Tướng Lê Văn Thân giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ
sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư
Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh
quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc
Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu
Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ
chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Ðại Tướng Nguyễn Khánh
lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không
Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Ðoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và
căn cứ Sư Ðoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Ðoàn 4 Không Quân tại
Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có
nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không
quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di
tản.
Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh,
thì Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Ðại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ
mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan
sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về
nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:
- Chuẩn Tướng Thân đâu
rồi các bạn? -
- Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng
xuống đó rồi bảo tôi về đi -
- Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng
chạy rồi -
(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng
trại tập trung Tân Hiệp, Biên Hoà, trại này người địa phương còn gọi
là trại Suối Máu nữa)
Ðại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi
tôi:
- Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Ðảo không? Hắn đang ở đầu
máy bên kia nè -
Ðó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức
lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, đã
quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn
thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Ðoàn III cho lệnh lui về
căn cứ Long Bình.
- Chào anh Ðảo, Hoa đây. Anh đang ở đâu vậy? -
-
Tôi ở chổ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản
nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi! -
- Dù gì thì anh cũng đã
đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh
khác mà -
- Sao anh ở chổ anh Minh? -
- (Tôi mượn câu của anh để trả
lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ
này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình
vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi -
Sau đó -tức sau giờ Tổng Thống
Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao- Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo dùng giấy
tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Ðội 7 Hoa
Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư
xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng
giam.
Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ máy thu thanh trong phòng Ðại Tá Ngô Văn
Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần
như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương
Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn
vị không được nổ súng, ở yên tại chổ và bàn giao cho lực lượng
giải phóng...". Ðối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông
hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự.
Tôi xem đây là giây thứ 3.600,
giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày
cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu cho tự do dân chủ!
Thế
là hết !!!
Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt,
rồi rẽ sang đường Trần Quốc Toản, bên phải để ghé vào Cục
Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó,
hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo: "không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì
thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ".
Dọc
đường về nhà, những nơi mà tôi vừa đi qua, có biết bao bộ đồ
trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỹ của
quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố.
Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi
áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh
bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc "Như Lá Chết
Cành Khô" do cựu Ðại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Ðổng Lý Văn Phòng của
Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập
trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình).
Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong
thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng
M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy lung tung. Ðó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng
sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ
nói lên một góc cạnh trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn
trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì không tròn trách nhiệm với dân với nước
!
Chốc chốc tôi sờ vào chai độc dược trong túi, dự định của
tôi khi xin Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh là tôi sẽ sử dụng nếu như
tôi bị cộng sản bắt hoặc chưa bắt nhưng chúng sỉ nhục tôi. Nhưng,
chiều hôm ấy, tôi đã ném nó cùng với khẩu súng lục 9 ly (do ông Johnson, trưởng
toán tình báo vùng đồng bằng Cửu Long tặng tôi tại Cần Thơ năm 1968) vào
cái giếng ngay sau nhà cô tôi ở đường Thành Thái, sau khi vợ tôi ngồi dưới
chân tôi vừa khóc vừa nói như van lơn: "Anh ơi, trong mọi trường hợp, anh
đừng bỏ em và các con nghe anh!". Chắc chắn là vợ tôi không biết gì về chai
độc dược trong túi tôi, nhưng có lẽ do cảm giác đặc biệt của
người vợ thấu hiểu tính chồng trong hoàn cảnh nghiệt ngã mà nói với chồng
bằng cả tâm hồn người vợ người mẹ!
Hơn một tiếng
đồng hồ sau lời đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!)
của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên
của cộng sản mới vào dinh Ðộc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng
Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị!
Trong
lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Ðoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào,
cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu
hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh!
Trước đó, khi
cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền
uy, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến
thật sự đã tàn và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng,
hiểu như thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là
Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành
thất thủ. Ðó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp
nhận đầu hàng, của:
- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh
Quân Ðoàn IV. (Cần Thơ)
- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân
Ðoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè
đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long.
- Chuẩn
Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. (Lai Khê, Bình Dương)
-
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)
-
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II, tự tử tại nhà vì
tên tuổi Quân Ðoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên
tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.
Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc
các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn
tiết! Ðó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng.
Vào những
ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi
ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng
nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng
chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc
chiến đấu của chúng ta, thì những vị đó đã can đảm thực hiện
tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường
võ bị : "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."
Và
theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, là người
rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng.
Thiếu Tướng Ðảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ
chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Ðoàn, đã chống trả
mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Ðoàn quân cộng sản tấn công
Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Ðoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của
Quân Ðoàn III.
Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn
Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ-
vừa sang trang!
Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của
cộng sản độc tài nghiệt ngã!
Quê hương Việt Nam chúng ta,
dân tộc
Việt Nam chúng ta,
sao mà bi thảm đến như vậy!
sao mà bất hạnh
đến như vậy!
Phạm Bá Hoa |
Subject: |
ĐI KHÔNG AI TÌM XÁC RƠI |
|
Author: |
SOSO |
|
Đi
Không Ai Tìm Xác Rơi
Trong khi quân lực VNCH quyết chiến để
chiếm lại thành phố Quãng Trị dù chỉ còn là một đống gạch vụn hoang
tàn đổ nát sau nhiều trận mưa pháo của người anh em phương Bắc.
Thành phố Quãng Trị được dời về Mỹ Chánh. Nói là thành phố nhưng
chỉ có mấy dãy nhà bằng tole cất lên vội vã cho ngưòi dân tạm trú mà thôi và sông
Mỹ Chánh là chiến tuyến địa đầu của miền Nam lúc bấy giờ.
Tháng
năm, năm 1972 đoàn trực thăng vận phi đoàn 213 gồm có bốn chiếc slick
UH-1 ( trực thăng vận ) và hai gunship UH-1H ( trực thăng võ trang ) đến làm việc
cho sư đoàn Dù mà bộ tư lệnh tiền phương đóng tại căn cứ
Sully thuộc xã An-Hoà , thường gọi là cây số 17 cách Huế 17 cây số . Chúng tôi bị
bắt buộc phải hành quân trực thăng vận đổ bộ một trung đội
thuộc tiểu đoàn 81 biệt kich Dù vào tận sào huyệt cũa đối phương,
đặt đại bản doanh phía tây đại lộ Kinh hoàng và phía bắc sông Mỹ
Chánh.
Đây là một vụ "nướng quân" mà chúng tôi đành chấp nhận hy sinh.
Vì người ta - thượng cấp - cố bắt chước Hoa Kỳ đổ bộ
vào Sơn Tây cướp tù binh. Nhưng trước khi người Mỹ làm việc nguy hiễm
ấy họ có đủ tin tức tình báo, không ảnh chính xát và những pilot thi hành nhiệm
vụ được thực tập trên địa hình gần với sự thật một
cách kỷ càng và phân nhiệm của phi hành đoàn trong mỗi giai đoạn. Ngoài ra họ
còn có thám thính cơ U 2 siêu đẳng quan sát và theo dỏi trên không, cũng như toàn bộ
lực lượng không quân Thái bình dương và Đông nam Á sẳn sàng trên trời để
kịp thời can thiệp và tiếp cứu . Còn chúng tôi nếu được như Kinh
Kha sang Tần còn dể hơn vì ít ra Kinh Kha cũng là một sứ thần làm thượng
khách và biết rỏ hang hùm ổ cọp, biết đối thủ là ai còn chúng tôi hoàn toàn
không có bất cứ tin tức hay không ảnh nào, cũng không có sa bàn để nhận diện
địa thế và càng không hiểu biết gì về đối phương cũng như
lực lượng của họ, như đi trong đêm giữa ban ngày chung quanh toàn ma quái
tử thần xuất hiện bất cứ lúc nào.
Khi vào họp với Thiếu tướng
Lê quang Lưởng, Tư lệnh binh chủng Dù, trong lúc họp tướng Lưởng nói
dối rằng "Các anh có hai phi tuần B52 đánh trước và khu trục cơ A37 cùng với
Cobra của quân đội Hoa Kỳ yễm trợ ( sic )". Còn Trung tá Tr- V- V tiền nhiệm
Phi đoàn trưởng 213 của chúng tôi thì phát họa chương trình hành quân chưa từng
có trong quân sử Bây giờ chúng ta bay tới điểm xuất phát, từ đó bắt đầu
xâm nhập vào đất địch. Chúng tôi hỏi : - Điểm xuất phát là đâu.
Ông trả lời: - Khi tới Mỹ chánh rồi từ đó các anh xuất phát .
Trời
ơi, điểm xuất phát vậy đó sao, lồ lộ trước mắt mọi người
còn đâu là bí mật. Điểm xuất phát là nơi bí mật mà các cánh quân từ các nơi
âm thầm di chuyển về để từ đó tung ra cuộc hành quân tấn công chớp
nhoáng vào quân địch. Chẵng hạn điểm xuất phát của không quân khi đánh
ra Quãng Trị là căn cứ Đà Nẵng mà ban đêm những phi đoàn khu trục cơ
từ Biên Hoà, Pleiku hay những nơi khác âm thầm hội tụ về đó để có
đủ lực lượng rồi mở cuộc hành quân ồ ạt tấn công. Hoặc
điễm xuất phát của không quân Hoa kỳ là ở Thái Lan, Phi Luật Tân, Đệ thất
hạm đội cùng xuất phát để tập trung vào chiến trường nào đó
. Còn chúng tôi có cái gì là bí mật đâu khi sáu chiếc trực thăng rần rộ đáp taị
căn cứ Dù, rồi cũng rần rộ cất cánh ai mà không thấy, không biết . Vậy
đâu là điểm bí mật để đồng loạt mở cuộc tấn công. Cũng
không có ai theo dỏi để sẳn sàng tiếp ứng. Về phía địch tình hoàn toàn
bị bưng bít "nơi đó không có gì hết, chúng ta chỉ đổ quân vào lấy tin tức
mà thôi". Phải có địch hoạt động mới có tin tức chứ chổ không người
thì lấy tin tức của ai ( ? )
Sau khi họp xong chúng tôi lặng lẻ ra tàu biết
rằng bị người ta xếp đặt đưa lên dàn hỏa thiêu tàn nhẩn nhất
của những vị chỉ huy. Đi bên cạnh Trung tá Tr -v -V tôi nói "nhứt tướng
công thành vạn cốt khô" đó Trung tá. Ông yên lặng tránh né. Bốn chiếc slick chở bốn
tiểu đội 81 Biệt kich dù và hai gunship yễm trợ mà không có một phi tuần B52
hay bóng dáng khu trục cơ, cobra nào hết như lời hứa "ẩu".
Khi ra tàu, hai
chiếc gunship UH-1H (Attack helicopter) đậu cuối dãy và khi đi ngang qua bốn chiếc
slick ( trực thăng vận ) trong số những copilote và phi hành đoàn đang chờ đợi
ở đó, đặc biệt Th/ uy Nguyễn duy Khương , người copi cùng tôi hành
quân vào Bastogne tháng trước, đứng chào tôi theo quân kỹ. Điều nầy làm tôi khá
ngạc nhiên và nói: - Sao hôm nay anh khách sáo quá vậy?
Chúng tôi cùng trao nhau vài câu hỏi thông
thường với nụ cười héo hắc vì tôi hiểu phi vụ nầy nguy hiễm
còn hơn đội đá vá trời. Nhưng sau đó tôi bất giác chợt rùng mình tự
hỏi : Có chuyện gì đây, Anh giã biệt tôi hay tôi giã biệt anh ?
Trong quân đội
có rất nhiều chuyện xãy ra trùng hợp với nhau thường gây ra cảnh gãy cánh giửa
đường. Có thể nói chúng tôi rất tin dị đoan và sợ những cảnh chào
hỏi không thông thường đó. Nếu chẵng thế thì SĐ 10 BB không đổi thành
SĐ 18 và Phi đoàn 213 ( hai lần con số xui 13 ) chúng tôi cũng xém bị xoá sổ vì hy
sinh quá nhiều trong mùa hè 72 mà Bộ tư lệnh KQ có đề nghị đổi tên phi
đoàn thành PĐ 216 ( chín nút ) trái với thông thường số sau cùng phải là số lẽ
và cũng không thể sếp hàng sau phi đoàn 215.
Xin cho tôi kể thêm chuyện bên lề
về một tấm hình được chụp đón mừng chúng tôi trở về từ
Biên Hòa sau khi biệt phái theo bước chân người lính Dù tham dự chiến truờng
Cao miên năm 71. Nhũng người có mặt trong tấm hình đó hy sinh từ trên xuống
dưới gần hai chuc phi công kéo theo những phi hành đoàn của họ, có khi mang theo sinh
mạng của nhiều quân nhân chuyên chở trên tàu. May mắn tôi kéo anh Nguyễn Quang Minh đang
trong hàng thư hai hay thứ ba bỏ hàng đi ra ngoài nên hai đứa tôi không có trong tấm
hình oan nghiệt đó và hôm nay anh Nguyễn Quang Minh làm copi của tôi.
Bây giờ thì chẳng
phải “chín tần gươm báo trao tay” nhưng quân lệnh nặng như núi và
chúng tôi đành phải “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” thôi. Sáu con tàu bắt
đầu cất cánh bay theo đội hình hàng dọc phía tây quốc lộ 1. Đại úy
Nguyễn văn Chiến leader bay chiếc gunship một bên trái đội hình phía rừng núi,
tôi bay chiếc gunship thứ hai yễm trợ phía sau bên phải, phía quốc lộ. Bay như
vậy tôi đựơc an toàn hơn nhưng nghĩ nếu có chuyện gì xãy ra anh em sẽ
quẹo gắt ra quốc lộ vòng trở về thì không tránh khỏi đụng nhau, nên tôi
báo với anh Chiến: - Charlie, tôi bay qua bên trái sau anh đó để cho có hai cái Gun vửng
hơn. Chiến trả lời: - OK. Thế là tôi bay sang bên cùng với Gun một bão vệ
cánh nặng nế nhất. Trung tá Tr v V bay CNC là cánh chim đầu đàn, nhiệm vụ
Commandant và Control phải dẩn đắt chúng tôi đến nơi đến chốn thi
hành nhiệm vụ, thế nhưng đoàn tàu bay gần tới Mỹ Chánh thì ông tuyên bố
“bây giờ các anh xuất phát và âm thầm rút lui”. Vừa bay sang qua bên trái tôi bị
một tràng AK bắn lên, mặc đầu hai xạ thủ Minigun trã đủa kip thời
nhưng tàu vẫn bị trúng đạn. Anh Minh và hai người xạ thủ phía sau cùng
nói: - Mình trúng đạn rồi. Tôi trã lời: - Ừ tôi cũng nghe nhưng không biết
trúng đâu. Minh mầy kiễm soát lại toàn bộ phi kế và instrument, còn hai anh ở sau
tìm xem coi có thấy dấu vết trúng đâu không. Tôi cũng tự mình kiểm soát lại
toàn bộ cockpit, tất cã bình thường nên không báo với leader vì sợ anh em mất tinh
thần mà vẩn tiếp tục cuộc hành quân, điều nầy làm tôi ân hận mãi đến
bây giờ vì sau đó vài phúc hai chiếc bị bắn rơi. Như vậy là toán tiền sát
của địch quân đả đột nhập vào khu vực phòng thủ của Bộ
tư lệnh tiền phương Dù rồi và bắn tràng đạn AK đó báo động
Nếu tràn đạn bắn vu vơ ấy gây ít nhiều gây nguy hiểm cho tôi hay cần phải
force landing thì xem như bỏ cuộc, như vậy anh em chúng tôi, hai phi hành doàn cùng hai tiểu
đội 81 BK dù đâu phải hy sinh vô ích.
Đoàn tàu đang tiến dần vào tử
địa mà tôi tin chắc rằng hai vi chỉ huy kể trên điều biết rỏ. Chẳng
bao lâu, một vệt lửa xanh dờn từ phía bên kia bờ Mỹ Chánh vừa vọt lên.
Anh Chiến vội la lên: - Sam sam break
Những phản lực cơ bay nhanh xé gió còn
không tránh nổi được loại hõa tiễn tầm nhiệt SA 7 ác ôn nầy mà vận
tốc vượt xa mấy bức tường âm thanh, còn chúng tôi chậm chạp như rùa
bò làm mục tiêu ngon lành qúa. Trong khi hợp đoàn slick bay sát nhau để hai chiếc gunship
dể dàng cover (bảo vệ). Bay như vậy quờ quạng đụng nhau cũng chết
còn nói gì tránh hỏa tiển. Tiếng hét báo động của Charlie chưa dứt, một
chiếc phát nổ ngay lập tức bên cạnh chúng tôi nhanh đến nổi ngỡ ngàng
mà sự sợ hãi còn lãng du đâu đó chưa kip về. Bản năng tự nhiên của
những người bay Gunship, anh Chiến chúi xuống đánh thẳng một loạt rocket
vào nơi hỏa tiễn SA 7 vừa bay lên còn để lại đám bụi mờ với
làn khói mõng như vòng tròn khói thuốc lá chưa kịp tan trong không khí còn lành lạnh hơi
sương.. Tiếng đồng hồ vừa gỏ ‘’ tíc ‘’ mà chưa kịp
gỏ tiếng ‘’tắc’’ trước mặt chúng tôi là một vách tường
lửa dối phương vội vàng dựng thẳng lên trời hay lửa của hàng trăm
miệng núi lửa vùng quần đảo Hawai đồng loạt phun lên và thật là biển
lửa .Đạn phòng không tự hủy nổ trên cao như pháo bông dỉ nhiên họ không
quên chiếu cố chúng tôi, con tàu của anh Chiến bây giờ bị đạn phòng không bao
phủ với cả ngàn ánh lửa chớp tắt lung linh. như cây mùa xuân giữa ban ngày,
tôi chỉ biết kêu trời trước cảnh ngoạn mục vừa hùng vĩ. Nếu
người ngoại cuộc nhìn cảnh ấy chắc hẳn đẹp vô cùng kèm theo những
mãnh vụn con tàu vừa nổ còn bốc lửa tủa ra trong không gian, hình như trời
chưa đủ sáng nên sai mười hai vị thiên thần mũ đỏ và bốn phi
hành đoàn chiếc slick của anh On và Phấn làm mười sáu ngọn đuốc thắp
sáng lên cho ngày thêm tươi khi chưa kip gọi hai tiếng “may day”.
Bây giờ
tới phiên tôi gặp đại họa. Tôi nhảy vào cuộc tung rocket đánh dọc theo
vách tường lửa ấy để đở đòn cho Charlie. Khi đánh rocket tôi không
ngờ nó như lệnh xé xác khi gặp “kỳ phùng địch thủ” tự động
xuất chiêu đánh rafale không cần lệnh chủ nhân nữa nên mấy chục trái nối
đuôi nhau ồ ạt tuôn ra không ngừng khiến con tàu khựng lại như chiếc lá
thu rơi vì sức phản hồi của mấy chục trái rocket đó, dù tôi muốn ngưng
để dọt cũng không được. Phóng lao đành phải theo lao, tôi đẫy
thêm cyclic tới trước để tàu không bị giãm tốc độ. Cùng lúc chiếc
slick thứ hai bên cạnh tôi bốc cháy thành cột khói trắng kéo dài chừng hai ngàn thước
mới nổ tung như chiếc phi thuyền Chalenger lâm nạn nổ tung trên trời, thêm
mười sáu cây đuốc nửa.
Những chiếc trực thăng vỏ trang của
chúng tôi không có chiếc nào có cửa nẻo gì hết, ngay cã cửa cokpit cũng được
gở ra để pilot tiện bề thoát ra trong trường hợp đáp khẩn cấp.
Không như những chiếc khu trục Skyraider hay A37 rocket được gắng trên cánh,
ít ra cũng cách pilot vài sãi tay, trên trực thăng, hai dàn rocket gắng phía sau sát hông tàu và khi
khai hõa, rocket từ sau lưng lao tới chỉ cách pilot chừng hai gang tay. Khi rời dàn phóng
nó bung bốn cánh sau đuôi vừa bay tới vưà xoáy với vận tốc cực mạnh
tạo ra tiếng rú kinh hồn cũng như khối lửa xoáy hình trôn óc sáng lòa trước
mặt. nhất là ban đêm những khối lửa ấy càng khũng khiếp hơn.
Cũng
vì không có cửa nên tàn rocket bay túi bụi vô tàu mà có thằng pilot gunship nào chiến bào không bị
cháy nhiều lổ. Có khi nó còn chui vô cổ áo, lọt xuống lưng như bị tàn thuốc
lá dúi vào da đành phải trân mình chịu trận, may mà có nón bay nếu không trên đầu
chúng tôi phải có nhiều dấu đốt như những vị Cao Tăng đắc đạo.
Bây giờ đây mấy chục trái rocket điên khùng đó đủ làm tôi bấn loạn
mà chỉ biết đẩy cần lái tới chống lại sức phản hồi , con
tàu như bị cuốn theo hằng chục khối lửa xoay mòng mòng trước mặt,
mặc kệ khói ùa vào tàu mịt mù và tàn rocket chớp nháng như bầy đom đóm đêm
khuya, tôi cũng không dám làm bất cứ maneuvre nào khác, chỉ cần tàu nghiêng nghiêng một
chúc thì rocket thụi sau lưng liền.
Có lẽ nhờ trận rafale bất đắc
dĩ ấy mà bầy rocket bao một vùng rộng lớn, đối phương cũng phải
từ chết tới bị thương hay ít ra cũng quăng súng bò càng dưới đất
giảm đi phần nào áp lực tôi mới còn có dịp ngồi đây viết lại đôi
giòng nầy. Khi trái rocket cuối cùng rời dàn phóng lao ra tôi tạt ngang qua chui vào làn khói chiếc
thứ hai của anh Sỹ và anh Khương còn để lại, hình như linh hồn các
anh chưa muôn vội tan để làm thành bức màn mây dầy đặc bão vệ những
phi hành đoàn còn lại và nhất là tôi. Vừa chui ra khỏi làn mây ấy nhưng vẫn
còn trong vùng hiễm địa ( death zone ), dù đối phương không thấy tôi nhưng
vẩn bắn bổng đuổi theo đạn bay vòng cầu trên cao rơi xuống chung
quanh như ngừời ta rãi hoa confective mừng đại hội, vừa lúc ấy anh Chiến
vòng trở lại đánh gở cho tôi tháo lui.
Con ngựa chứng nầy đánh rocket
khỏi chê mà cũng thường hay đánh bán mạng. Không biết sau nầy có bà nào cởi
được trên lưng con ngựa chứng ấy không ? Hai chiếc chúng tôi đang bay
ngược chiều mà từ xa ông cứ phóng rocket ào ào từng cặp bay ra sát bên cạnh
tàu làm tôi phải thất kinh hồn vía, khiến người tôi cứng như khúc gổ dẩu
có mấy lớp da gà cũng nổi lên hết. Tội vội hét lên: - Trời ơi đánh
cái kiểu gì kỳ vậy !. Giọng Huế đặt sệt : - Mẹ nọ đang
đuội theo mầy.
Bay về đến vùng an toàn, xót xa hai phi hành đoàn gãy cánh, Anh
Sỹ, Phấn ,On và anh Khương , người copi chào vĩnh biệt tôi hồi nãy, thân
thể các anh và bao nhiêu người nửa biến thành làn mây trắng cuồn cuộn trong
ánh bình minh, hiến thân mình cho bài Không Quân hành khúc mà trong đó có câu ĐI KHÔNG AI TÌM XÁC RƠI.
(còn xác đâu mà tìm)
Chúng tôi bay vài vòng nhìn về phía chiến trường để xác
định nơi nào “đạn vụt bay đến nhanh, đàn chim chưa tung cánh xác
rơi trên đất lành” để những con chim còn lại bay vòng ủ rủ những
cánh chim lìa đàn. Phía đối phương còn nhiều tiếng nổ và khói cuồn cuộn
bốc lên cao. Anh Chiến nói : - Rocket mầy bặn đó, chắc trúng kho đạn gì
của nó rồi. mầy gan dữ quá hỹ. Tôi trã lời: - Định đánh vài trái
dứt thằng đang thổi vô hông của ông thôi, ai dè rocket ở vị trí rafale hoãng quá. Về
căn cứ Dù cả hai chiếc cùng bị trúng đạn nhiều nơi và vài đầu
đạn AK hay RPD gì đó còn kẹt lại .Tuy chưa đến đổi nào nhưng cũng
phải nằm ụ vài ngày vá víu.
Trung tá Tr V V không hề tỏ vẻ xúc động
trước sự hy sinh tức tưởi của đàn em để lo tổ chức cấp
cứu hai phi hành đoàn vừa tử trận cùng với hai tiểu đội 81 Biệt
kích Dù, biết đâu có người còn sống sót mà còn hỏi tôi “anh có đánh trái rocket
nào không”?!!
Bạn bè chúng tôi hy sinh trên chiến trường đã đành, nhưng
bị nướng quân như thế nầy cũng không ít. Cố Th / tá Trần lê Tiến
hy sinh trên trên đĩnh Checkmate phía Tây nam Cố đô Huế đễ sau đó nghe Đại
tá Toàn Tham mưu trưởng SĐ 1 BB nói : - Các anh rớt một chiếc là may, tụi
nó đầy dưới đất, tôi chỉ cần một chiếc đáp được
trên đĩnh thôi.
Như vậy người ta quyết định nướng hết
sáu chiếc chúng tôi trong ngày đó rồi. Nếu người ta chân thành một chút đừng
che dấu sự thật để chúng tôi áp dụng chiến thuật và kỹ thuật bay
riêng để hoàn thành trách nhiệm dù phải hy sinh cũng như chúng tôi tiếp tế tiền
đồn Bastogne giửa vòng vây của địch mà Tướng Nguyễn Văn Phú nói :
- Tôi không dám ra lệnh cho anh em nhưng nếu thấy cách nào có thể giúp được
anh em mình trong đó cầm hơi kéo dài được lúc nào hay lúc ấy.
Tiếc thay
và anh hùng thay Ông đả tuẫn tiết cho tròn khí tiết của bậc anh hùng vốn rộng
lòng hiếu sinh .
Chỉ lời nói chân tình và biết qúy mạng sống của sĩ
tốt chúng tôi đột nhập vào Bastogne bắt chấp mọi hiễm nguy chứng tỏ
chúng tôi không hèn trốn tránh trách nhiệm. Còn che đậy, gạt gẫm chúng tôi để
chúng tôi chết oan uổn mà cuộc hành quân người ta nặng đầu óc trên bàn mạc
chược hay bửa tiệc linh đình nào đó không đạt được mục đích
gì hết. Trên đĩnh núi Cối xay ở Thượng Đức tỉnh Quãng Nam, người
ta cũng nói tình hình yên tĩnh, nhưng bị phục kích ngay bãi đáp và chiến sĩ Biêt
động quân phải lao mình ra đánh cận chiến với đối phương ngay
lập tức khi bốn con tàu vừa chạm đất, phi hành đoàn Thiếu uý Lưu
và Lãm bị VC đâm chết.
Một ánh sao Hôm
Còn vụ
nướng quân khác mà vi Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng thuộc SĐ 2 BB của
tướng Trần văn Nhựt, hớt hải chạy kiếm tôi nói: - Trời ơi
anh làm sao cứu đàn con tôi với, đưa tụi nó vô đó chết hết, trong đó
có cả sư đoàn việt cộng đông như kiến.Tôi nói: - Cuộc hành quân nầy
ở cấp Sư đoàn do 72 điều động (72 là biệc danh của tướng
Trần văn Nhựt ) ngoài khả năng quyết định của chúng tôi. Trên chúng tôi
còn có CNC nửa.
Khi viết nhũng dòng nầy tôi còn nhớ rỏ dù đã hơn ba mươi
năm qua, hình ảnh người chiến sĩ dày dặn chiến trường, dạm nắng
phong sương bước đi thất thiểu những bước não nề. sao khi tôi
từ chối lời cầu cứu đàn con anh. Người chỉ huy đáng kính và thương
lính mình như con dại ấy bây giờ hồn ở nơi đâu? Chính tôi cũng có ý muốn
cứu Tiểu đoàn ấy bằng cách yêu cầu chiếc đầu tiên sau khi đáp xuống,
chạy ra bỏ lại tàu để tôi cấp cứu, thì xem như cuộc hành quân phải
hủy bỏ. Nhưng mà đâu có pilot nào dám bỏ con tàu lại chiến trường và chính
bản thân chúng tôi rồi không biết sẽ ra sao nửa, nếu có người biết được,
tôi đành phải ra toà án quân sự thì cuộc đời và binh nghiệp xem như cáo chung.
Tôi
cũng ngở ngàng cuộc hành quân cấp tiểu đoàn ( 64 tiểu đội ) chỉ có
5 chiếc slick và 2 gunship thôi. Đúng ra chúng tôi cần có pháo binh, khu trục oanh tạc dọn
bãi trước và ít nhất cũng 20 chiếc slick chuyễn quân và 4 gunship bão vệ để
đợt đổ quân đầu tiên ít ra cũng được một đại đội
tương đối đủ khã năng làm bàn đạp và bão vệ bãi đáp cho những
đợt theo sau. Hơn nửa tiểu đoàn phải hành quân nghi binh vừa bảo mật
trong vùng nào đó để chúng tôi đến từng nơi bốc đi thay vì gom hết
lại phi trường Đức Phổ vùng xôi đậu, ban đêm hoàn toàn bất an ninh.
Chỉ cần đối phương có một khẩu cối 82 ly đâu dó khai hõa thì phi trường
Đức Phổ cã ngàn người quy tụ tại đó chắc xãy ra cảnh tấm máu,
7 giờ 30 sáng chúng tôi có mặt mà mãi đến 1 giờ trưa cuộc hành quân cũng chưa
thể bắt đầu được, làm chúng tôi phải chờ đợi trong nao núng
vì sợ bị pháo kích vào phi trường.
Chúng tôi cầm vận mạng của tiểu
đoàn gần bốn trăm người trong tay mà không được briefing để hiểu
biết tình hình diện điạ hầu tìm cách bay bổng riêng theo chiến thuật trực
thăng vận với từng địa hình thế trận. Khiến tôi phài tự hỏi
chúng tôi có phài là những quân nhân đầu đội "Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm"
cũng như ai hay chỉ là hạng tài xế xe đò, chắc hẳn bề trên cũng nghĩ
như vậy. Chúng tôi không gặp bất cứ quan chức thẫm quyền nào có thẩm
quyền để hỏi tình hình đối phương trong cuộc hành quân phi chiến thuật
phi binh pháp nầy, mặc dầu người người tới lui tấp nập với
nhiều bông mai trắng trên vai, huy chuơng đầy trên ngực, ngay cả CNC Th/ tá Trương
văn Hoàn nửa là đàn anh PĐ 213 của chúng tôi cũng không thấy đâu hết. Tôi
nóng ruột lấy hai chiếc gunship lên vùng quan sát điạ thế và bãi đáp chuẩn bị
cuộc chuyển quân.
Bãi được cấp trên chọn lựa là một khoãng trống
eo hẹp nằm trong thung lũng giửa rừng thiên núi thẫm, với bải đáp như
vậy chúng tôi không thể nào áp dụng được hết tuyệt kỷ cách đáp nhanh
chóng nhảy diều hâu được. Hơn nửa rất dể dàng bị phục kích
tại bải đáp thập phần nguy hiểm khi con tàu và bộ binh nhảy xuống ngoài
khoãng trống. Tôi quyết định chọn bải đáp là khoãng trống cuối lưng
của dãy núi dài hẹp không xa. Như vậy xem như chúng tôi thực hìện một chúc gì
để nghi binh đánh lạc hướng đối phương. Những phi công của
chốn núi rừng cũng dể dàng phát huy hết sở truờng của họ với cách
bay thấp raremote tuỳ theo cây rừng cao thấp để tránh né phòng không hạng nặng
vì loại nầy nòng dài, tấm bắn cao và xa nên cần phải có xạ trường. Bay
thấp như vậy chúng tôi đã làm mất hiêu năng của họ rồi chỉ còn chấp
nhận loại súng cá nhân của địch mà thôi, còn pilot thì cũng chỉ cần một
vài giây đồng hồ họ có thể giãm tốc độ từ hai trăm cây số còn
vài chục cây số giờ để vào bải đáp. Hơn nửa bộ binh ở trên
đồi cao nhiều lợi thế dẩu đối phương cũng không dám liều
lĩnh tấn công từ dưới lên. Hai chiếc gunship ngoài việc quanh vùng bảo vệ
chặc chẻ bải đáp và lúc nào cũng bao vùng để sẳn sàn giúp đở quân
bạn vừa nhảy xuống. Sau dó tôi trở về hướng dẩn đoàn trực
thăng chuyễn quân vào.
Đoàn trực thăng vận bay theo đội hình bật
thang và bay thật thấp trên ngọn cây rừng và sắp xếp thời gian cho những chiếc
trực thăng chuyển quân đáp từng chiếc một, chiếc nầy vừa cất
cánh thì chiếc khác nhanh chóng nhảy vô liền để không mất thời gian tính. Chúng tôi
phải bay liên tục nhiều đợt chuyễn quân mãi đến tối mịt vẫn
chưa xong.. Lại một lần nửa cuộc hành quân phi quân sự và binh pháp phơi bày
quá rỏ, vì hành quân trực thăng vận phải xong ít nhất vài giờ trước khi
trời tối để bộ binh vừa nhảy xuống có đủ thời gian thám sát,
di chuyễn đào hố cá nhân và bố trí phòng thủ, đàng nầy họ vừa nhảy
xuống giửa rừng thẫm âm u trong bóng tối đưa bàn tay ra còn không thấy chẵng
khác nào thả đàn dê trước miệng hổ, tội nghiệp.
Tôi thật sự
ngao ngán quá cho cuộc hành quân không có yếu tố quân sự sơ đẵng theo những
bài học quân trường từ sự bí mật, bất ngờ, nhanh chóng và ồ ạt
đều không có. Đêm bắt đầu buông xuống, những con tàu đáp khó khăn và
tôi phát hiện có nhiều tiếng súng gần xa báo tình hình bất ổn, hơn nữa vì trời
tối chúng tôi không còn thấy rỏ bãi nên không thể bay nhanh đáp bạo được.
Tôi báo cáo lên CNC yên cầu ngưng phi vụ nhưng CNC ra lệnh chúng tôi tiếp tục chuyến
cuối cùng vẩn không thấy CNC ờ đâu hết. Cuối cùng chiếc Thiên Ưng 7 của
phi đoàn 239 biến thành ánh sao băng khi nghe vang trong vô tuyến: - May day ,may day. Tôi rùng
mình nhìn qua bên cạnh một khối lửa xanh dờn đang vùn vụt lướt trong màn
đêm trời không "xanh như màu áo" Tôi hét lên: - Tắt máy làm Force landing. Lời tôi lạc
lỏng trong bóng đêm vô tình. Một vì sao rơi, rơi về với lòng đất mẹ.
Nhớ
lại từ khi Không Quân có cả ngàn chiếc trực thăng đủ loại đứng
vào hàng thứ ba trên thế giới những tưởng quân lực VNCH nắm được
thế thượng phong chủ động chiến trường tung những cưộc
hành quân xa với lực lượng hùng hậu đuổi hổ về rừng hay tìm địch
vây địch mà đánh, trái lại càng lúc càng co cụm chiếm những đỉnh cao mà
không thấy địch , xây thành làm mục tiêu cho đích pháo kích, tấn công cũng phi binh
pháp. Mổi ngày trực thăng phải phân tán mõng thành từng nhóm nhỏ năm sáu chiếc
cho các sư đoàn điều chi để tiếp tế cho những tiền đồn
đó rồi cũng không biết quy tụ thành lực lượng mạnh khi cần thiết.
Nếu biết và am tường chiền thuật trực thăng vận, tập trung lực
lượng trong vài giờ gần 100 chiếc slick và trực thăng gunship tại Đà Nãng
bão vệ cùng khu trục ngăn cản đối phương chắc hẵn cuộc triệt
thoái Thũy Quân Lục Chiến ở Thừa Thiên không dến đổi tấm máu, tiếc
thay !!!
Sau mùa hè đỏ lửa Phi đoàn 213 khánh tận, chịu sự hy sinh quá nhiều
đến đổi từ đó mổi chiều về vợ con thân nhân của chúng tôi kéo
nhau tới cổng phi trường hay tới phi đoàn dỏi mắt trong chờ từng
chiếc trực thăng đập cánh tành tạch trở về với những nổi vui
mừng và run sợ trộn lẩn của
"Thưở trời đất nổi cơn
gió bụi, Khách má hồng nhiều nổi truân chuyên. mà trong đó bao người thiếu
phụ biến thành "tượng đá ôm con"
Khi viết những giòng nầy không biết
vị Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng thương lính như con cái ấy và những
người lính trong tiểu đoàn đó còn ai không nửa!
Xin chia buồn với thân
nhân, gia đình hai phi hành đoàn và hai tiểu đội 81 Biệc kích Dù vuợt tuyến Mỹ
chánh. Thân nhân Thiên Ưng 7, Tiểu đoàn thuộc SĐ2BB kể trên. Tôi xin cúi đầu tưởng
niệm tất cả anh linh cũa những anh hồn người tử sĩ hội nhập
với hồn thiên sông núi.
Song Chùy 11 Tháng Giêng, năm 2005
"Nếu ai đó có viết nhật ký cuộc đời oanh liệt của mình xin
đừng quên ghi thêm chuyện ''nướng quân trên dòng sông Mỹ Chánh'' và nhiều vụ
nướng quân khác nữa để rồi sau đó kẻ nướng quân đào ngủ
trước đoàn quân đang trút giọt máu cuối cùng trên chiến địa, người
quân nhân chỉ biết thi hành trước, đợi đầu thai rồi mới có quyền
khiếu nại sau mà"
| |
Cựu Chiến Binh "homeless" Và Phim "Inside The Vietnam War"
- NGUYỄN DUY-AN -
Nguyễn Duy An là người Á châu đầu tiên đảm nhiệm
chức vụ Senior Vice President National Geographic, tổ chức văn hoá khoa học lớn nhất
thế giới.. Bài viết của ông mang theo một thông tin đặc biệt: Truyền
hình National Geographic chiếu phim "Inside the Vietnam War" nhân kỷ niệm 40 năm trận chiến
Mậu Thân.
Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của
sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng: - Duy à... Có
chuyện rồi! Đại uý Morrow cần gặp riêng Duy. Bà ta vội vã quay lưng, với
tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay đại uý Morrow vừa
hỏi: - Mời đại uý ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng? - Xin lỗi
anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 người "homeless" cứ nằng nặc đòi gặp
anh cho bằng được. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp
ông để thảo luận. Những người này có vẻ không đàng hoàng... nhưng
có một người tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta. - Ồ... Đó
là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện
ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm. Không sao đâu. Để tôi xuống gặp
họ. - Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng
kia trông có vẻ "ngầu" lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và "càm ràm"
với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán
chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần... Anh
tính sao? - Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn
họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào "cafeteria" uống ly nước, chắc
không sao chứ? - Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Để
tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở "cafeteria". Anh không
ngại chứ? - Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân. Trong
lúc theo với đại uý Morrow xuống nhà gặp "khách", tôi nghĩ về kỷ niệm
quen biết Norman từ gần 10 năm trước. Hồi đó, tôi mới về làm cho
National Geographic, vì chưa quen đường sá ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn nên
thường đi làm bằng xe "Metro". Một buổi sáng Thứ Sáu, tôi đi trễ hơn
bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ
cho các con trước ngày tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở
trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang
"rên rỉ" bài Hạ Trắng:
Gọi nắng... trên vai em gầy đường xa áo
bay Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say Lối em đi về... trời không
có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy...
Lên khỏi cầu
thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một một người
Mỹ "homeless" đang "ngất ngưởng" thả hồn vào một cõi xa xăm vô định,
miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán
thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh...
Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ
biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta
đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn
treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ,
anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt: - Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa
rồi không? - Đương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng
Việt cũng giỏi. - Đại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng
đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhưng khi trở về
bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập
thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng
mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ
cuộc chiến. - Ông... - Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người
Việt tụi mày vẫn nói thế sao? - Tôi không quen gọi người lạ như thế.
Hay gọi nhau là "anh tôi" được không? - Tuỳ mày. Tiếng Việt tụi mày rắc
rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa? Tao phải tiếp tục thổi thêm
vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11 giờ, mày có thể tới
nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu
không chê, mày có thể trở lại. - Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn
phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn. - Mày không
sợ hả? - Sợ gì? - Tụi tao là loại người bị ruồng bỏ và khinh
chê. - Không có đâu. Tôi sẽ trở lại. - Đi đi. Hẹn gặp lại. Tôi
đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm
động, và chúng tôi trở thành "bạn" từ dạo đó. Tôi thắc mắc tự
hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn
theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối. Tôi
chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National
Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở "hạch hỏi".
Đã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần
và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp
đường phố thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Có những người đã
từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để
thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội
đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm
thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến
Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial). Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách
nát và bẩn thỉu, thân thể xâm č ? ầy những bức hình ngổ ngáo hay những
dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong
đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ
cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân
quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta. Vừa
gặp mặt, Norman siết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng: - Gặp
mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh
nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám "cớm dổm"
ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất
thân của tao. Norman đổi giọng, nói tiếng Anh: - Đây là thằng Duy rất
thân của tao. Nó là người Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây.
Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân "homeless"
của tao. Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi
lên tiếng mời: - Mời các bạn xuống "cafeteria" uống nước và nói chuyện. -
Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện. - Không
sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman
cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt: - Biết rồi! Khổ lắm,
nói mãi! Đúng không? - Rất đúng. Nghe giống hệt "một ông già Bắc kỳ" thứ
thiệt. Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống
phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những người đang
có mặt trong "cafeteria" sáng hôm đó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:-
Để khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc
thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có "preview" cuộn phim "Inside the
Vietnam War" trước khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết
Mậu Thân. Đúng không? - Đúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài
National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này. - Đài của tụi mày chỉ có trên "Cable" và "Direct-TV".
Dân "homeless" tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé "preview"
mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Được
không? - Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng
có bao giờ xuất hiện đâu! - Lần này khác... vì họ nói về tụi tao và những
bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Để giữ sĩ
diện cho tôi, cả 3 người "bạn" cựu chiến binh đều ăn mặc quần
áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang "Explorer
Hall" cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội
trường chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé "preview", tôi đã liên
lạc nhờ mấy người trong nhóm "Audio & Video" của sở sắp xếp để
chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội trường, tránh xa những vị "tai to mặt
lớn" trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu
Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ. Sau những lời giới
thiệu, những bài diễn văn theo thủ tuc, cuộn phim bắt đầu chiếu.
Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt
người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng siết chặt tay nhau để nén lại
những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi người. Thỉnh
thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên
khắp hội trường. Ba người bạn của tôi vẫn "án binh bất động"
dõi mắt dăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi,
từng câu nói, từng tiếng khóc... trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại
cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị "dân Mỹ" và có
lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi
Bernie, rồi Norman và một vài người chung quanh cùng khóc theo! Ai đó đã ra lệnh
tạm ngưng. Đèn hội trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người
chung quanh rồi vội vàng "kéo" ba người bạn cựu chiến binh ra khỏi hội
trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót "khật khưỡng"
bước theo tôi như ba cái xác không hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được
một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu "Inside the VietNam
War" nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 người bạn cựu
chiến binh "homeless" đã cùng tôi đi xem "preview" hôm đó, và cũng nhờ họ mời
thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài
viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ. Có lẽ đã
tới lúc người Mỹ nhận thức được "món nợ phải trả" cho
sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam. Lòng
tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu
quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
NGUYỄN
DUY-AN |
|
 |
|
 |
|
 |
|
 |
 |
ThaiDuong
530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh Pleiku Airbase, Vietnam
|
|