Kim chỉ em may một lá cờ
Để anh bảo vệ tôn thờ bao năm
Dẫu cho biến động 75
Cờ Vàng sọc đỏ ngàn năm vẫn c̣n!
Subject: |
Vài Kỷ Niệm Về Sư Đoàn 5 Bộ Binh Và Tướng Lê Nguyên Vỹ |
|
Author: |
comay |
|
[Triệu Vũ]
Đầu tháng 9-1965, sau khi tốt nghiệp khóa 19 Sĩ Quan Trừ
Bị Thủ Đức, tôi về B́nh Dương tŕnh diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn
5 Bộ Binh. Đây là một trong những đại đơn vị kỳ cựu của Quân
lực VNCH, bao gồm các đơn vị thiểu số miền Bắc – mà đa số
thuộc sắc dân Nùng thuộc vùng tự trị Móng Cáy của Đại tá Wọng A Sáng. Di cư
vào Nam, được mang tên Sư Đoàn 3 Dă Chiến, sau đổi thành Sư đoàn 5 Bộ
Binh, trấn giữ vùng đông bắc thủ đô Saigon và được coi như đơn
vị tín cẩn nhất của chế độ.
Ngày ấy, Tướng Vỹ c̣n mang cấp bậc Thiếu Tá, giữ chức
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn đồn trú tại Bến Cát, sau
dời lên Chơn Thành, cách tỉnh lỵ B́nh Dương khoảng 50 km về hướng
Bắc. Từ Bộ Tư Lệnh SĐ ở Phú Lợi - B́nh Dương, tôi đă nhiều lần
lên đó, khi th́ đi cùng phái đoàn Thanh Tra, khi thanh tra một ḿnh, theo lệnh đơn vị
trưởng, nên tôi có nhiều dịp tiếp xúc với Thiếu Tá Vỹ và các Sĩ Quan trong
Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Nhờ vậy, cũng từ những ngày đó, tôi biết thêm nhiều
về cuộc đời "người lính chiến thực sự" Lê Nguyên Vỹ.
Tướng Vỹ sinh năm 1933 tại Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam.
Ông nguyên là sĩ quan binh chủng Nhảy Dù, thời Thiếu Tá Đỗ Cao Trí c̣n giữ chức
Liên Đoàn Trưởng. Ông tham dự nhiều cuộc hành quân từ Bắc vào Nam. Năm 1955,
sau cuộc tảo thanh B́nh Xuyên ở Saigon - Chợ Lớn, ông được thăng cấp
Đại Úy. Ít năm sau, rời Nhảy Dù, Ông ra phục vụ tại Sư Đoàn 5 BB. Ông được
giao chức Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/9, rồi Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9BB
năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá sau một thời gian làm Chi Khu Trưởng Chi
Khu Bến Cát.
Những ai từng làm việc với ông, dù thượng cấp, hay quân sĩ
dưới quyền, đều chung một nhận xét: Ông là vị chỉ huy rất nóng tánh
– theo tôi phải nói là trực tánh mới đúng. Trong một đặc san của Sư
Đoàn 5BB thuở đó, đă ghi như sau về Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 – tức
Thiếu Tá Vỹ: "Có một lần Ông vung tay đập vỡ mấy cái mặt bàn". Nhưng
nói ǵ th́ nói, không ai có thể phủ nhận Ông là một sĩ quan chỉ huy hành quân tài giỏi,
thủ cũng như công. Những phái đoàn thanh tra từ Tổng Tham Mưu, Quân Đoàn, Sư
Đoàn khi đến quan sát nơi đóng quân của đơn vị Ông, đều hết lời
khen ngợi. Bản doanh Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 9 tại Chơn Thành là một căn cứ
pḥng thủ h́nh ngũ giác kiểu mẫu.
Đối với nhân viên thuộc Bộ Chỉ Huy, có lẽ Ban 2 vất vả
hơn cả. Lư do đơn giản là Ông Trung Đoàn Trưởng luôn quan tâm đến t́nh h́nh
địch, t́nh h́nh bạn. Nhờ vậy, đơn vị do Ông chỉ huy đă ghi hết
chiến công này đến chiến công khác, trong cũng như ngoài Khu 32 Chiến Thuật.
Những địa danh, những mật khu, những chiến khu từ Bến Súc, Bến
Sỏi qua Dầu Tiếng, Lộc Ninh, Hớn Quản, đến Đồng Xoài, Phước
Long, Phước Quả rồi mênh mông Tam Giác Sắt, Chiến Khu C, Chiến Khu D v.v. nơi
nào cũng in dấu gót giầy hành quân của các chiến sĩ Trung Đoàn 9.
Những năm 1965-1967, sau khi quân tác chiến Mỹ ào ạt đổ vào miền
Nam, t́nh h́nh chiến trận cũng như chính trị có nhiều biến động. Trên mặt
trận quân sự, CSBV công khai đưa các đơn vị chính qui vào vùng Cao nguyên Trung phần
(Tây Nguyên, tức Mặt trận B-3) và Tây Bắc vùng Hỏa Tuyến (Mặt trận Trị-Thiên).
Đồng thời, CSBV cũng thành lập Sư Đoàn 2 tại Quảng Ngăi và Sư Đoàn 3 "Sao Vàng"
tại B́nh Định (Quân khu 5 CS). Tại miền Đông Nam Phần (Quân Khu 7 CS), CSBV thành lập
sư đoàn (Công trường) 9 tại B́nh Long, 5 tại Bà Rịa (Căn cứ Mây Tầu)
và 7 tại Phước Long.
Về chính trị, từ tháng 6-1965, chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu
- Phan Huy Quát rút lui, trả lại quyền điều hành đất nước cho quân đội!
Người ta được nghe những cụm từ như Ủy Ban Lănh Đạo Quốc
Gia, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương v.v., hoặc Tổng Cục A, Tổng Cục B, Cục
Y, Cục Z v.v. V́ Quân Đội điều hành việc nước, dĩ nhiên nhiều quân nhân
được nắm giữ các chức vụ quan trọng tại các Bộ và nha, sở.
Những cấp chỉ huy cao trong quân đội cứ thay đổi liên tục. Thực
là đau ḷng khi thấy phe này hạ bệ hoặc thanh toán phe kia, tôn giáo này ḱnh chống tôn
giáo nọ. Chắc không ai có thể quên vụ "bàn thờ ra đường" c̣n được
gọi là vụ "Phật Giáo miền Trung" xẩy ra vào mùa Xuân 1966. Chính quyền Trung Ương
tại Saigon năm ấy đă mang quân đội và cảnh sát ra Đà Nẵng và Huế thẳng
tay dẹp bàn thờ và phong tỏa chùa chiền. Một số lớn quân nhân theo Phật giáo
đă bị thuyên chuyển từ Vùng I vào Vùng III hoặc vùng IV Chiến Thuật. Dân gian thời
đó thường truyền miệng "được làm vua, thua làm đại sứ"
hoặc "được làm vua, thua đi chữa bệnh" v.v. Trường hợp các
Ông Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh
Thi, Phạm Văn Liễu v.v. là những chứng nhân rực lửa hận thù hoặc xót
xa, tiếc nuối, ngậm ngùi tới cuối đời. (Xem hồi kư Nguyễn Chánh Thi,
Đỗ Mậu, Phạm Văn Liễu, v.v.)
Thời gian này, Trung Đoàn 9 của Trung Tá Vỹ thường phối hợp hành
quân với các đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ trong các chiến dịch
tiến vào các mật khu Cộng Sản như Cedar Falls, Junction City v.v. Ông giữ vững
lập trường một người lính chiến đấu, gắn bó với tiền
tuyến, sát cánh cùng thuộc cấp giữ chắc tay súng truy cản địch quân ngoài mặt
trận, chỉ lo chu toàn nhiệm vụ mà không quan tâm đến nhiều rối loạn chính
trị, nhiều tranh giành quyền lực tại hậu phương.
Sự tham chiến của binh đội Mỹ – nhất là việc đánh
bom miền Bắc để áp lực Hà Nội ngưng xâm lược miền Nam, chấp
nhận sự hiện hữu và biên giới của hai thể chế chính trị do các cường
quốc ngấm ngầm chấp nhận – gặp sức phản kháng và chống đối
trên toàn thế giới. Ngay tại Mỹ, phong trào phản chiến cũng ngày một dâng cao,
khởi đi từ những cuộc biểu t́nh ngồi chống lệnh động viên
trong các đại học, rồi đến những cuộc biểu t́nh ngoài đường
phố. Bởi vậy, từ năm 1966-1967, chính phủ Tổng Thống Lyndon B. Johnson phải
t́m cách tiếp xúc với Bắc Việt để t́m một giải pháp chính trị.
Trong khi đó, tại miền Nam, các phe phái, Tướng Tá vẫn không ngừng
tranh chấp, thanh toán lẫn nhau. T́nh huynh đệ chi binh và mục tiêu chiến lược
bảo vệ miền Nam khỏi họa Cộng Sản không đủ ngăn chặn những
mưu bá, đồ vương. Người ta cho rằng miền Nam sẽ ổn định
nếu chấm dứt t́nh trạng quân đội nắm quyền và tổ chức bầu
cử càng sớm càng tốt. Thế nhưng oái oăm thay, sau khi liên danh Nguyễn Văn Thiệu
-Nguyễn Cao Kỳ thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 9-1967 và dẹp yên được
chống đối của phe Phật Giáo cùng sinh viên, học sinh, t́nh h́nh hậu phương
bề ngoài yên tĩnh, thực ra có biết bao cột sóng ngầm cuồn cuộn. Sự kết
hợp bất đắc dĩ của liên danh Thiệu - Kỳ có nguy cơ trở thành đối
đầu và tiến đến thanh toán nhau trong những ngày tới.
Ngoài chiến trường, chỉ nói riêng khu 32 Chiến Thuật (gồm 3 tỉnh
B́nh Dương, B́nh Long, Phước Long), vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 BB, đă mở
rất nhiều cuộc hành quân b́nh định, hành quân truy quét địch, cho nên t́nh h́nh an
ninh tạm ổn. Lại thêm lúc này quân đội Mỹ vào miền Nam đă lên con số khá
cao. Quốc lộ 13, c̣n có tên gọi là "Quốc lộ máu", đoạn B́nh Dương - B́nh
Long đă ít bị phục kích hoặc gài ḿn. Hoặc đoạn đường "gai lửa"
B́nh Dương - Phước Long trên Quốc lộ 14 cũng được khai thông.
Đặc biệt thời gian này, Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 9BB đă ghi một chiến
công lớn. Nhờ tinh thần chiến đấu anh dũng, quyết tâm kháng cự, lại
được phi pháo yểm trợ, Tiểu đoàn đă bẻ gẫy một cuộc tấn
công của địch vào Bộ chỉ huy, đóng tại Phước Quả, cách tỉnh
lỵ Phước Long hơn 10 km về phía tây nam. Do chiến thắng trên, Tiểu Đoàn Trưởng
2/9 (Đại Úy T.) được thăng cấp Thiếu Tá, sau về làm Trung Đoàn Phó Trung Đoàn
9 BB.
Như đă lược nhắc, từ năm 1967, phong trào phản chiến
trên nước Mỹ dâng cao. Những vụ biểu t́nh đ̣i rút binh đội Mỹ khỏi
Việt Nam không ôn hoà như trước mà có phần quá khích, có khi c̣n đốt cờ Mỹ
hoặc xé thẻ trưng binh v.v. Chính phủ Johnson bối rối, hơn nữa lại sắp
có tổng tuyển cử vào năm tới (1968). Đây là một thách thức lớn của Tổng
Thống Johnson và Đảng Dân Chủ. Qua trung gian Tổng thư kư LHQ, Pháp, Vatican cùng một số
nước khác, chính phủ Johnson t́m cách ḍ ư Hà Nội về một giải pháp chính trị.
Trong khi đó, bộ máy chiến tranh tại Hà Nội, được Liên Sô và Trung Cộng
cố vấn, đă bắt mạch được thế lúng túng của Hoa-Thạnh-Đốn,
nên ra sức chuẩn bị một trận đánh lớn để chứng tỏ khả
năng hiện diện và tiềm năng quân sự của họ tại chiến trường
miền Nam, đồng thời làm chao đảo tinh thần nhân dân và Quốc Hội Mỹ
cũng như tạo áp lực với chính phủ Johnson tiến tới bàn hội nghị.
Đúng vào những ngày Tết năm Mậu Thân 1968, Hà Nội đơn phương
hủy bỏ thỏa thuận hưu chiến, mở cuộc Tổng Tấn Công vào Saigon và
44 tỉnh, thị xă của VNCH. Mặt trận tại B́nh Dương và BTL/SĐ5 khởi diễn
đêm mùng 1 rạng mùng 2 Tết (31-1-1968). Lúc này, quân số hiện diện tại các đơn
vị thuộc BTL/SĐ, cũng như Tiểu Khu B́nh Dương, trường Công Binh, Thiết
Đoàn 1 Kỵ Binh v.v. không tới 50%.
Thế mà, dù cho địch có chuẩn bị thật
kỹ, bảo mật tối đa và đặc biệt tấn công bất ngờ, chúng vẫn
không làm chủ t́nh h́nh. Giao tranh dữ dội tại khu vực Ḷ Chén và trường Công Binh
trong tỉnh lỵ. Địch cũng đặt những "chốt" chặn xung quanh thị xă
và pháo kích vào Phú Lợi, cách B́nh Dương 5km về hướng đông, nơi đặt
Bộ Tư Lệnh SĐ5BB, mục đích cầm chân, không cho tiếp viện. Lập tức,
Sư Đoàn điều động đơn vị của Trung đoàn 7BB giải toả từ
phía nam lên và đặc biệt lệnh cho Trung Đoàn 8 của Đại Tá Vỹ ở Bến Cát
(lúc này Ông đă thăng cấp Đại Tá, chỉ huy Trung Đoàn 8BB) đưa đơn vị
về giải tỏa từ phía bắc và phía đông. Đại Tá Vỹ đặt Bộ chỉ
huy Hành Quân tại Bưng Cải, khoảng giữa tỉnh lỵ và BTL/SĐ. Ông đích thân điều
động cuộc hành quân đánh đuổi địch ra khỏi thị xă và các chi khu lân
cận, đồng thời tiếp tục truy quét tàn quân địch.
Nh́n chung, cuộc tổng tấn công và tổng khởi nghĩa của Việt
Cộng năm Mậu Thân đă thất bại nặng nề. Nhưng về chính trị,
chúng đă đạt thắng lợi đáng kể. Trước áp lực từ nhiều
phía, tháng 3-1968, Tổng Thống Johnson tuyên bố không tái tranh cử và hai tháng sau, Hoa-Thạnh-Đốn
cùng Hà Nội cử phái đoàn tới Paris để thương nghị. Số phận VNCH
đang nằm trên bàn cờ chính trị cũng như lịch sử VN sắp sang một trang
mới.
Sau những đợt hành quân giải tỏa năm Mậu Thân, Đại Tá Vỹ
trở về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn tại Bến Cát. Thế là, sau khi chỉ huy Trung Đoàn
9 trên 3 năm, rồi Trung Đoàn 8 trên 2 năm, Đại Tá Vỹ đă thực sự dẫn giắt
và có công xây dựng thành 2 Trung Đoàn chủ lực hùng hậu của SĐ5BB. Chính Tướng Phạm-Quốc-Thuần,
người đă nắm chức Tư Lệnh SĐ5 hơn 4 năm (có lẽ lâu hơn các vị
Tư Lệnh khác) chắc rất hănh diện và quư mến vị Trung Đoàn Trưởng này.
Đổi lại, Đại Tá Vỹ được địch quân treo giá tính mạng rất cao.
Để có thể chiêu dụ hoặc thanh toán Ông, địch đă dùng nhiều phương
cách, kể cả ám sát và mỹ nhân kế v.v. Địch c̣n dùng thủ đoạn khác là lợi
dụng t́nh cảm quan hệ gia đ́nh từ miền Bắc gửi thư cho Ông. Nhưng
chúng đă không thực hiện được một ư đồ nào. Ông và các quân sĩ thuộc
quyền, tiếp tục truy lùng và diệt địch, tiếp tục lập chiến công.
Những trận đánh tại Phú Ḥa Đông, bên kia sông tỉnh lỵ B́nh Dương, ṿng lên Cầu
Định, Bầu Bàng, Bầu Ḷng, qua tận Phú Giáo, hoặc những vụ phục kích trên hành
lang di chuyển của địch, bắt sống, hạ sát giao liên - kinh tài, tịch thu vũ
khí - tài liệu v.v. khiến hoạt động quấy phá của địch trong vùng trách
nhiệm suy giảm rơ rệt. Thời gian này, sự kiện đáng ghi nhớ là một lần
nữa, SĐ5BB lại được tuyên dương công trạng trước Quân Đội. Và
tất cả quân nhân từ binh sĩ tới cấp Tướng thuộc SĐ hănh diện được
đeo Dây Biểu Chương Bảo Quốc Huân Chương màu đỏ hoàn toàn.
Tuy nhiên, chiến thắng quân sự của VNCH và Đồng Minh năm 1968 không
đủ làm nguội tham vọng chiếm miền Nam của Hồ Chí Minh - Lê Duẩn và Đảng
CSVN. Tại Mỹ, việc TT Thiệu chưa chịu gửi phái đoàn qua Paris tham dự
ḥa đàm trước ngày bầu cử phần nào giúp liên danh Nixon đắc cử khít khao,
nhưng chính sách giải kết của Mỹ đă là ḥn đá tảng. Tổng thống Nixon
gọi TT Thiệu qua Midway thông báo sẽ bắt đầu triệt thoái quân Mỹ và Đồng
Minh, nhưng sẽ giúp VNCH tăng gia quân số cũng như trang bị vũ khí hiện đại
hơn, trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh (Vietnamization).
Đích
thân TT Nixon, trong chuyến công du Á Châu, đă bí mật ghé Saigon vào hạ tuần tháng 7-1969, cho
lệnh quân đội Mỹ triệt thoái nhanh hơn. Chính sách ngoại giao toàn cầu của
Mỹ cũng thay đổi dần, từ "đối đầu" sang "ḥa hoăn", "đối
thoại". TT Nixon và Cố vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger bắt đầu sử
dụng cả hai lá bài Nga Sô và Trung Cộng, để ép Hà Nội phải chấp nhận
một giải pháp chính trị.
Đầu năm 1970, v́ quân đội Đồng Minh đă một phần rút khỏi
Việt Nam, trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, BTL/SĐ5 di chuyển lên
Lai Khê, cách quận lỵ Bến Cát khoảng 5km về hướng đông bắc, nằm
trên Quốc lộ 13. Lai Khê xưa kia là nơi người Pháp xây dựng nhà máy, pḥng thử
nghiệm cao su và có trồng hàng trăm héc ta cao su làm mẫu. Lai Khê đă trở thành một
căn cứ quân sự quan trọng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh một Lữ Đoàn
của SĐ1BB Hoa Kỳ; và khi họ về nước, BTL/SĐ5BB tiếp nhận căn cứ
trên. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 8 cùng đóng chung trong căn cứ.
Thời gian này, Tướng Nguyễn Văn Hiếu đă thay Tướng Thuần
làm Tư Lệnh. Đại Tá Vỹ làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thêm một thời gian
trước khi đi thụ huấn tại Hoa kỳ. Và Trung Đoàn này đặt dưới
quyền chỉ huy của một sĩ quan do Tướng Hiếu đưa từ miền
Trung về. Tiếc thay vị Đại Tá Trung Đoàn Trưởng mới (Bùi Trạch D.) đă
thân bại danh liệt trong trận Snoul (nằm giữa tỉnh Kratie và biên giới Việt
- Campuchia), khiến cả một Trung Đoàn chủ lực của SĐ, với phù hiệu "Chúa Sơn
Lâm" trên ngực áo trái, bị thảm bại, nay như người bệnh đang cần
chữa trị, thuốc thang để mau có sức hồi phục – cả đơn
vị chỉ c̣n khoảng 500 tay súng. Chính Tướng Hiếu cũng bị ảnh hưởng
không tốt sau trận Snoul. Kể từ đây, con đường binh nghiệp của Tướng
Hiếu đă rẽ sang một khúc quanh mới (và cuối cùng Ông đă tử nạn tại
Văn Pḥng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III với lư do "Bất cẩn khi lau chùi vũ khí?")
Năm 1971, sau khi tốt nghiệp khoá Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại
Hoa Kỳ, Đại Tá Vỹ được lệnh trở lại SĐ5BB, với chức vụ
Tư Lệnh Phó SĐ. Đương kim Tư Lệnh là Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá
Vỹ ra sức chấn chỉnh việc pḥng thủ căn cứ Lai Khê, nơi đặt
bản doanh chính của Bộ Tư Lệnh SĐ. Căn cứ Lai Khê có ṿng đai pḥng thủ
khá rộng. Các pháo đài, các vọng gác làm bằng gỗ thông và bao đựng cát che chắn,
có tính dă chiến, tạm bợ, do quân đội Đồng Minh để lại, đă đến
lúc phải tu bổ, sửa chữa nhiều.
Đích thân Đại Tá Vỹ cùng các Đơn vị
trưởng đến từng vọng gác, từng pháo đài quanh căn cứ để
kiểm soát, đôn đốc, tái thiết lập hệ thống pḥng thủ. Ông chỉ thị
các đơn vị phải đào những hầm trú ẩn h́nh chữ "A" để giảm
thiểu thiệt hại cho binh sĩ khi địch pháo kích v.v. Cũng nhờ vậy mà sau
nhiều lần tấn công của đặc công Việt Cộng, khi th́ vài toán nhỏ, khi
cả tiểu đoàn, cũng không thể nào xâm nhập sâu trong căn cứ. Trái lại, bị
lực lượng bố pḥng phát hiện kịp thời và phản kích khiến chúng thiệt
hại nặng. Có lần, sau một cuộc tấn công xâm nhập, tổng số tử thi
đặc công đếm được ngay tại ṿng đai trong cùng của căn cứ
lên tới hơn 40 xác. Đây là con số khá lớn, v́ căn bản, tấn công bằng đặc
công là xử dụng những toán nhỏ, được huấn luyện rất thuần
thục, nhằm gây tổn thất lớn về vật chất và tinh thần cho đối
phương. Vả lại, phải mất một thời gian lâu dài, địch mới đào
tạo bổ sung được hơn 40 đặc công.
Ngoài bản doanh chính tại căn cứ Lai Khê, Sư Đoàn 5 đặt Bộ
Tư Lệnh Hành quân tại thị trấn An Lộc, tức tỉnh lỵ B́nh Long, nằm
trên Quốc lộ 13, cách Saigon khoảng 100km về hướng bắc. Tướng Hưng
và Đại tá Vỹ thường luân phiên có mặt tại An Lộc để kịp đáp
ứng t́nh h́nh.
Thời gian này, kế hoạch "Việt Nam hóa" chiến tranh đă gần hoàn
tất. Cả Mạc-Tư-Khoa lẫn Bắc Kinh đều áp lực Hà Nội sớm giải
quyết chiến tranh. Lê Đức Thọ – nhân vật quyền lực thứ ba trong bộ
Chính trị Đảng CSVN – nhiều lần mật đàm tại Paris cùng Cố vấn An
Ninh Quốc Gia Mỹ Henry Kissinger, trong chiến lược "vừa đánh vừa đàm".
Về phương diện quân sự, nhân thế thất bại chiến lược của
quân lực VNCH tại Hạ Lào và Campuchia, Hà Nội quyết định mở một đợt
tấn công mới trong mùa Xuân-Hè 1972, với miền Đông Nam Việt làm "điểm", và Quảng
Trị cùng Cao nguyên Trung phần làm "diện", nhằm tiêu hao lực lượng VNCH và mở
rộng lănh thổ kiểm soát, chuẩn bị cho giải pháp "ngưng bắn da beo". Trên mặt
trận ngoại giao, Hà Nội muốn lợi dụng năm tranh cử Tổng thống ở
Mỹ để ép chính phủ Richard Nixon phải nhượng bộ ngưng yểm trợ
chế độ VNCH của Tổng Thống Thiệu, hầu thành lập một chính phủ
ḥa hợp. Hà Nội c̣n muốn thành lập một thủ đô cho Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam, dưới bảng hiệu mới Chính phủ Lâm thời Cộng
ḥa Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, vào tháng 1-1972, do Tướng Abrams dự đoán được ư đồ
của Hà Nội – đă gia tăng những cuộc oanh tạc B-52 khiến các trục
tiếp vận chiến lược của CSBV bị thiệt hại nặng nề –
cuối cùng Bộ Chính trị Đảng CSVN đổi ư, chọn Quảng Trị làm "điểm"
[chủ yếu], mặt trận miền Đông và Cao nguyên chỉ c̣n là "diện" [hỗ trợ].
Hạ tuần tháng 3-1972, đích thân Văn Tiến Dũng mang hơn 1 quân đoàn với đầy
đủ tăng pháo vượt qua giới tuyến Bến Hải đánh chiếm Quảng
Trị.
Khác với những đợt tấn công năm Mậu Thân (2/1968, 5/1968, 9/1968)
mà các nhà nghiên cứu và b́nh luận gọi là cuộc "tấn công tự sát", lần này Hà Nội,
với mục đích tạo ưu thế tại bàn hội nghị, đồng loạt mở
3 mặt trận lớn tại Quảng Trị, Kon Tum và B́nh Long.
Những ngày đầu tháng 4-1972, đă có tin t́nh báo ghi nhận những cuộc
chuyển quân của địch từ phía bên kia biên giới, theo hướng bắc và đông
bắc tiến gần đến Lộc Ninh, một quận lỵ thuộc tỉnh B́nh Long,
cách thị trấn An Lộc khoảng 20km về phía tây bắc. Đây là nơi đặt Bộ
Chỉ Huy Chiến đoàn 9 (gồm Trung đoàn 9 BB, tiểu đoàn Biệt động quân,
Chi đoàn Thiết giáp, tiểu đoàn Pháo binh v.v.). Thế rồi, rạng sáng ngày 6 tháng 4
năm 1972, vẫn với chiến thuật quen thuộc tiền pháo hậu xung, lực lượng
địch với quân số đông gấp ba quân trú pḥng, lại có chiến xa yểm trợ
mở cuộc tấn công. Đại Tá Chiến đoàn trưởng Nguyễn Công V. cùng một
số sĩ quan tham mưu bị bắt làm tù binh. Trong khi đó, thị trấn An Lộc,
tức tỉnh lỵ B́nh Long, bị địch pháo kích từ mấy ngày trước, mở
màn cho những trận mưa pháo ṛng ră trên ba tháng trời. Người ta bàng hoàng, lo lắng
được tin Lộc Ninh thất thủ. Tướng Hưng và Đại Tá Vỹ đều
có mặt tại BTL Hành quân để điều động quân sĩ trong vùng được
gọi là mặt trận B́nh Long - An Lộc.
Ngày 13-4-1972, Việt Cộng tung 3 Sư đoàn bộ binh (Công trường 5,
7, 9), có pháo và chiến xa yểm trợ tấn công. Mở đầu là những trận mưa
pháo rót vào thị xă từ nửa khuya. Đạn pháo nổ liên tục trải khắp thành phố,
rung chuyển mặt đất. Người ta không thể ước tính được có
bao nhiêu trái đạn pháo và cũng không định hướng được địch
đă pháo từ phía nào. Không kể những vị trí quân sự như Bộ Tư Lệnh
Hành Quân/SĐ5, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu B́nh Long, Bộ Chỉ Huy TrĐ 8 v.v., bệnh viện,
trường học, chợ, nhà dân, trung tâm tạm cư cho người di tản từ Lộc
Ninh đều bị trúng pháo địch. Cả thành phố ch́m trong lửa khói. Rồi bỗng
nhiên địch ngừng pháo. Bên ngoài, trời vừa hừng sáng, những cột khói đen
vươn lên cao. Người ta nghe được tiếng máy gầm gừ của đoàn
cơ giới tiến vào thị xă. Không! Không thể lầm được! Chiến xa địch
đang di chuyển, càng lúc càng gần Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Đây là lần đầu
địch sử dụng chiến xa tại chiến trường miền Đông và cũng là
lần đầu tiên, binh sĩ của ta phải đối phó, nên có phần nào hoảng
hốt, bối rối.
Nhưng lạ thay, các họng súng đại bác trên chiến xa không thấy
nhả đạn, địch h́nh như đang ḍ t́m mục tiêu, chúng đă mất phương
hướng. Một chiếc T54 đang nghiến xích sắt trên mặt đường sát
bên hông BTL/Hành Quân. Mọi người, từ binh sĩ tới Tư Lệnh chiến trường,
đều nín thở như chờ đợi một thảm họa và hầu như phó mặc
cho số phận. Bỗng Đại Tá Vỹ lao khỏi hầm, với nón sắt, áo giáp và đặc
biệt khẩu súng chống chiến xa M72 trên tay, theo sau là Trung úy sĩ quan tùy viên. Tới
bờ tường pḥng thủ, vừa lúc chiến xa địch vượt qua khỏi cổng
chính khoảng 20 mét, Ông quỳ người, giữ tư thế tác xạ, đưa M72 lên
vai. Người sĩ quan tùy viên kế bên, khom người quan sát. Mọi người trong
hầm chỉ huy hồi hộp phóng tầm nh́n qua lỗ châu mai. Một tiếng nổ. Và
một luồng lửa đỏ tống về phía sau. Chiến xa địch bị trúng
hỏa tiễn, bốc khói nhưng vẫn cố di động trước khi trở thành
một khối sắt xám xịt vô dụng bên vệ đường.
Quân sĩ từ trong hầm chỉ huy đổ ra ngoài reo ḥ mừng rỡ.
Bây giờ người ta mới thực sự tin M72 đă bắn hạ chiến xa địch
mà suốt mấy năm qua, từ khi được trang bị, chưa có cơ hội tác
xạ. Ai ngờ ngày hôm đó, trong cơn nguy khốn, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó chiến
trường lại làm nhiệm vụ một khinh binh, đích thân sử dụng M72 triệt
hạ T54 của Bắc Việt. Câu chuyện Đại Tá Vỹ bắn hạ chiến xa địch
lan truyền, tinh thần quân sĩ trú pḥng tại B́nh Long - An Lộc lên cao. Đó đây có những
báo cáo về Bộ Tư Lệnh, cho biết đă bắn hạ thêm nhiều chiếc khác.
H́nh như chiến xa địch bị vô hiệu hoá v́ không có bộ binh phối hợp, có
lẽ do hiệu quả những đợt B52 trải nhiều thảm bom suốt ngày đêm
hôm trước.
V́ Hà Nội mở chiến dịch Xuân Hè 1972 khắp 3 vùng chiến thuật,
lực lượng Tổng trừ bị VNCH (Dù và TQLC) bị phân tán mỏng. Sau đó, Bộ
Tổng Tham Mưu giữ TQLC ở vùng I, và đưa Nhảy Dù về vùng III và vùng II. Quân
Đoàn III c̣n được tăng phái một số đơn vị của Quân Đoàn IV như
SĐ21BB, SĐ9BB. Liên Đoàn Biệt Cách Dù cũng vào mặt trận hầu có thể sớm giải
tỏa An Lộc. Nếu An Lộc thất thủ, Sàig̣n tất nhiên bị đe doạ.
Trong khi các lực lượng giải tỏa gặp rất nhiều khó khăn
tại các nút chặn quanh thị xă An Lộc, nhất là tại Xa Cam, khoảng 10km về phía
nam, th́ lực lượng tử thủ bên trong thị xă như sống trong hỏa ngục.
Hàng ngày, cái thị trấn nhỏ bé nhận nhiều ngàn đạn pháo của địch,
cộng thêm tiếng bom nổ của các phi cơ oanh kích chiến xa địch trên đường
tiến gần thị xă, tiếng bom từ B52 trải xuống quanh vùng dội lại v.v.
Liên lạc từ BTL Hành Quân đến các đơn vị bên ngoài bị gián đoạn. Tinh
thần mọi người quá căng thẳng và rơi vào t́nh trạng khủng hoảng.
Cũng có thể nhận xét của Tướng Hollingsworth, Cố vấn Quân Đoàn III, rằng
Tướng Hưng, Tư Lệnh chiến trường, như người "mất hồn"
và "không làm được việc ǵ cả" là quá khắt khe chăng?
An Lộc bị vây hăm càng lâu, tinh thần quân sĩ trú pḥng càng xuống. Thiếu
ngủ, thiếu dinh dưỡng, thiếu nước, v.v. lại thêm môi trường ô nhiễm
v́ xác tử thi đă thối rữa, bốc mùi v.v. thực không sao tả hết được
nỗi kinh hoàng cùng cực của các chiến sĩ tử thủ An Lộc ba mươi sáu
năm về trước (cũng vào THÁNG TƯ quái ác). V́ "tất cả cho chiến trường",
cho nên kế hoạch tiếp tế, tản thương đă lập tức thực hiện
song song với việc giải tỏa. Việc tiếp tế thả dù khởi đầu
không được như ư. Phi cơ phải tránh pḥng không địch, nên bay quá cao và có nhiều
kiện hàng rơi không đúng nơi dự tính. Lại thêm địch tiếp tục pháo
nên việc đón nhận các tiếp liệu phẩm gặp khó khăn. Đă có những quân nhân
tử nạn v́ bị kiện hàng rơi trúng, không kịp tránh, hoặc bị trúng đạn
pháo trước khi chạm tay vào các vật phẩm tiếp tế.
Dẫu vậy, không như Cổ Thành Quảng Trị ở Vùng I hay Tân Cảnh
(Dakto) ở Vùng II, thị trấn An Lộc đă đứng vững, chứng minh tinh thần
anh dũng, quyết chiến của các chiến sĩ tử thủ cũng như giải
tỏa, trong mặt trận B́nh Long - An Lộc. Kết thúc trận chiến, sau này theo thống
kê, cả hai bên đều thiệt hại nặng. VNCH vẫn kiểm soát được
các tỉnh lỵ, huyện lỵ (trừ Lộc Ninh) và thị trấn trên Quốc lộ
13, đoạn B́nh Dương - B́nh Long, Việt Cộng kiểm soát vùng nông thôn và ven ranh. Di
chuyển lên B́nh Long, Phước Long, phải dùng phi cơ, không c̣n thênh thang đường
bộ như năm trước.
Rời chiến trường B́nh Long - An Lộc, một trận chiến làm
rúng động thế giới, Đại Tá Vỹ về làm Phụ Tá Hành quân Tư Lệnh Quân
Đoàn III rồi được chỉ định làm Tư Lệnh lực lượng đặc
nhiệm (gồm liên đoàn Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v.). Ngoài ra, Ông cùng một
phái đoàn được đi du ngoạn Đài Loan gọi là để tưởng thưởng
các chiến sĩ hữu công. Sư Đoàn 5BB cũng có một Tư Lệnh mới, Đại Tá
Trần Quốc Lịch thay Tướng Hưng từ sau trận chiến An Lộc. Những
cuộc giao tranh ác liệt không c̣n, thỉnh thoảng địch "đóng chốt" hoặc
bắn xẻ.
Năm 1973, Đại Tá Vỹ thuyên chuyển về Sư Đoàn 21 BB, giữ chức
Tư Lệnh Phó. Ít lâu sau, chính Tướng Hưng lại về làm Tư Lệnh Sư Đoàn
21 một thời gian trước khi nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Rừng núi
miền Đông Nam Phần khác với vùng śnh lầy miền Tây. Hơn hai mươi năm trước,
Thiếu Úy Vỹ đă cùng bao đồng đội, lao ḿnh ra phỏi phi cơ ở độ
cao mấy ngàn bộ, khi th́ nhảy ngay trên đầu địch, khi th́ nhảy xuống sau
lưng địch, đánh bọc hậu, th́ nay, dù Sư Đoàn 5 hay Sư Đoàn 21, dù Quân Đoàn III
hay quân Đoàn IV, đời chiến binh đâu chẳng là nhà. Và nhiệm vụ nào thượng
cấp đă giao, phải ra sức chu toàn. Với nhiệm vụ của một Tư Lệnh
Phó, Đại Tá Vỹ thường bay thị sát trong vùng và không may, trong một phi vụ quan
sát, máy bay gặp nạn, Ông bị văng ra khỏi phi cơ nhưng như có phép lạ, chỉ
bị gẫy xương ống chân và xây xát, bầm tím trên mặt, trên thân thể. C̣n sống
sót khi máy bay gặp nạn là điều hiếm thấy và quân y viện đă săn sóc, bó
bột chân; xong để Ông về nhà dưỡng thương ba tháng trước khi tháo băng
bột.
Thời gian dưỡng thương, đi lại phải nhờ vào cặp
nạng nhôm quân y viện cho mượn, sinh hoạt cần thiết hàng ngày đôi lúc phải
nhờ người khác. Nhưng đây cũng là thời gian hiếm có trong đời để
nhớ về những trận đánh, những chiến trường và những chiến
công. Là một chiến sĩ từng xông pha ngoài trận tuyến, dày dạn chiến trường,
mà nay chỉ làm bạn với chiếc máy thu thanh, thu h́nh, tin tức chỉ xoay quanh Việt
Cộng vi phạm hiệp định bao nhiêu lần, đă đón nhận bao nhiêu tù binh, giành
dân lấn đất ở đâu v.v., Ông thường tự hỏi chẳng lẽ mang danh
chiến sĩ mà cứ loanh quanh trong căn pḥng hơn 20 mét vuông với đôi nạng hay sao?....
Thoắt đă gần 3 tháng, c̣n 2 tuần nữa là tới ngày tháo bột. Những
bằng hữu, chiến hữu lui tới thăm hỏi cũng thưa dần. Trong khi ấy,
sau trận chiến An Lộc, Sư Đoàn 5 BB cần được bổ sung và chỉnh đốn
về mọi mặt, từ quân số đến trang thiết bị. Đại Tá Trần Quốc
Lịch, đă được thăng cấp Chuẩn Tướng. Bộ Tham Mưu/SĐ gồm
Đại Tá Tham Mưu Trưởng Đ., Trưởng Pḥng 1 H., Trưởng Pḥng Tổng Quản
Trị T.H., Trưởng Pḥng 4, Tiểu Đoàn Tiếp Vận, Trung Tâm Huấn Luyện Sư
Đoàn v.v. cộng với các Trung Đoàn Trưởng mới … tập họp thành một "…"
(không biết dùng từ nào cho thích hợp), làm Sư Đoàn "tuột dốc" thê thảm. Nạn
bè phái, chạy chọt chức vụ, cấp bậc, lo lót về đơn vị yểm
trợ, lính ma, lính kiểng, ăn chơi, trụy lạc v.v. khiến Trung Ương không
thể dung dưỡng được lâu. Và kết quả, Chuẩn Tướng Lịch
bị cách chức Tư Lệnh, giáng cấp, chờ ngày ra toà (dịp này, Chuẩn Tướng
Lê Văn Tư/SĐ25BB cũng bị cách chức và giáng cấp).
Vào một ngày đầu tháng 11-1973, Đại Tá Vỹ nhận lệnh về
đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB với trọng trách chấn
chỉnh, thanh lọc và lấy lại uy danh ngày xưa. Thời gian này, Trung Tướng Phạm
Quốc Thuần đă thay Tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư Lệnh Quân Đoàn III và Quân
Khu III. Lệnh trên đă ban ra, buộc Đại Tá Vỹ phải yêu cầu các quân y sĩ tháo
băng bột ở chân sớm hơn dự dịnh một tuần và ngày 7 tháng 11-1973, lễ
bàn giao diễn ra tại Bộ Tư Lệnh/SĐ ở Căn Cứ Lai Khê.
Trở lại chiến trường miền Đông lần này, lại nhận
một trọng trách lớn, Đai Tá Vỹ bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh, sắp
xếp các sĩ quan ở Trung Đoàn và Bộ Tham Mưu. Ông rất hài ḷng với ba Trung Đoàn Trưởng:
Trung Tá Quế, từ đơn vị Biệt Cách Nhảy Dù chỉ huy Trung Đoàn 9; Trung Tá Hùng,
thụ huấn tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu, về chỉ huy Trung Đoàn 8; và Trung
Tá Vượng, Trung Đoàn 7. Trường hợp Trung Tá Vượng tưởng cũng nên
mở dấu ngoặc để nói thêm: Ông từ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến,
về Sư Đoàn 5 làm ... sĩ quan Thanh Tra! Đại Tá Vỹ, không muốn phí phạm nhân lực
và muốn tạo cơ hội tốt cho Trung Tá Vượng, nên đă trao Trung Đoàn 7 cho Ông.
Đối với Bộ Tham Mưu Sư Đoàn, trải qua những kinh nghiệm chiến trường
và những phúc tŕnh đầy đủ, Đại Tá Vỹ muốn có một phụ tá biết
xử dụng khả năng, sức mạnh của thiết giáp, kỵ binh nên Đại Tá Thoàn
thuộc binh chủng Thiết Giáp đă về làm Tư Lệnh Phó/SĐ, và Trung Tá Đ.Đ.Chinh, một
Sĩ Quan Tham Mưu nhiều năm kinh nghiệm thay Đại Tá Đăng trong chức vụ Tham
Mưu Trưởng. Dĩ nhiên phần lớn các trưởng pḥng thuộc Bộ Tham Mưu/SĐ
cũng lần lượt ra đi. Thế là SĐ5BB bây giờ đă mang một bộ mặt
mới và quân sĩ đă có niềm tin mới vào các cấp chỉ huy. Con đường trước
mặt là phải ngăn chặn và giáng trả những vi phạm, phải giành lại những
nơi mà địch lấn chiếm sau hiệp định tháng 1-1973, tới nay c̣n đóng
"chốt" và cố thủ. Ngoài ra, việc pḥng thủ các vị trí đóng quân cũng là mối
quan tâm lớn của vị tân Tư Lệnh. Bài học đắt giá từ chiến trường
An Lộc khiến các đơn vị đă tích cực hơn nhiều trong việc thiết
lập hệ thống pḥng thủ. Ngoài việc đào giao thông hào quanh đơn vị, lập
hầm trú ẩn an toàn cho binh sĩ, mỗi đơn vị bắt buộc phải đào
một giếng nước v.v. Riêng ṿng đai pḥng thủ căn cứ, ngoài hệ thống
ḿn bẫy dĩ nhiên phải có, Đại Tá Vỹ đặc biệt giao cho Tiểu Đoàn 5 Công
Binh sản xuất thực nhiều chông nhỏ rải xung quanh các pháo đài quanh căn cứ.
Loại chông này, lấy vật liệu từ kẽm gai, có h́nh dáng như 4 cái đinh, mỗi
đinh dài khoảng 3cm, mũ của đinh tụ lại ở giữa, bốn đầu
nhọn của đinh có ngạnh giống lưỡi câu, hướng ra ngoài. Khi chông rải
ra, lúc nào cũng có một mũi nhọn hướng lên trời để chờ đợi
những bàn chân "đi giải phóng". Đại Tá Vỹ muốn tạo niềm tin cho các quân sĩ,
tin vào khả năng tác chiến, tin vào vũ khí và hỏa lực, tin vào hệ thống pḥng
thủ vững chắc và nhất là tin vào tinh thần quyết chiến của cấp chỉ
huy cùng đồng đội, th́ cho dù tiền pháo hậu xung, cho dù biển người, cho
dù xe tăng T54, T56 v.v. cũng không làm sờn ḷng chiến sĩ SĐ5.
Tuy rất bận rộn với công vụ, Đại Tá Vỹ thường dành
vài giờ mỗi tháng để nhắn nhủ hoặc tâm t́nh cùng quân sĩ tại vơ đường
của SĐ. Đặc biệt, rút kinh nghiệm chiến trường An Lộc, Ông đă chỉ
thị Trung Đoàn 8 cho tác xạ biểu diễn hoả tiễn TOW (được trang bị
từ cuối năm 1972), một loại hoả tiễn tối tân có thể điều khiển
t́m mục tiêu, để quân sĩ trú pḥng vững tin hơn. Thời gian này, Sư Đoàn lại
được bổ sung hai Sĩ Quan nhiều kinh nghiệm tham mưu và chiến trận:
Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Đại Tá Từ Vấn. Đại Tá Tường xuất
thân binh chủng Nhảy Dù, trước khi về SĐ là Tiểu Khu Phó TK/B́nh Định; Đại
Tá Vấn nguyên là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân.
Về an ninh diện địa, trong vùng trách nhiệm của SĐ5BB, Việt Cộng
vi phạm Hiệp Định ngừng bắn nhiều lần, nhưng chỉ lẻ tẻ và
ở mức độ thấp. Đơn vị tác chiến của SĐ đă trực tiếp giáng
trả hoặc hỗ trợ các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân giành
lại thôn, ấp xa xôi do địch tạm chiếm. Tuy nhiên vào khoảng gần cuối
năm 1974, cách quận lỵ Bến Cát hơn 10km về phía tây nam, đồn Rạch Bắp
bị địch tràn ngập.
Đây là một trọng điểm kiểm soát hành lang di
chuyển của địch. Lực lượng đồn trú bị tổn thất nhẹ
và đă rút ra ngoài an toàn. Bộ Tư Lệnh chỉ thị Trung Đoàn 9 phải đưa một
đơn vị hành quân giải tỏa. Địch đă rút lui về vùng Tam Giác Sắt chỉ
để lại chừng một trung đội cố thủ tại đây. Trải qua mấy
ngày đầu, lực lượng tái chiếm vẫn dậm chân tại chỗ. Địch núp
dưới giao thông địa đạo tránh bom và pháo. Khi ta xung phong lại gặp hỏa
lực dữ dội của địch. Cho nên đơn vị của TrĐ 9 đến giải
tỏa, thay đổi chiến thuật. Trong khi cả tiểu đoàn vây hăm ṿng ngoài, có những
toán nhỏ với vũ khí nhẹ và lựu đạn, xâm nhập và tiêu diệt từng ổ
kháng cự. Thế là cũng với quân số tương đương, ta chiếm lại
được Rạch Bắp.
Niềm vui chiến thắng kéo dài tới ngày Quốc
Khánh 1-11-1974, ngày Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được vinh thăng Chuẩn Tướng. Một
số các quân nhân khác cũng được tưởng thưởng và thăng cấp trong
dịp lễ kỷ niệm này. Đặc biệt sắc lệnh thăng thưởng cấp
Tướng chỉ có hai vị: H.V.Lạc lên Chuẩn Tướng thực thụ, và Lê Nguyên
Vỹ nhiệm chức.
Khoảng trung tuần tháng 12-1974, từ phía đông bắc căn cứ Lai Khê,
tin dữ đưa về: Việt Cộng tấn công một số chi khu của tỉnh
Phước Long như Đôn Luân, Đức Phong và đang uy hiếp tỉnh lỵ. Mọi liên lạc
tiếp viện, yểm trợ không thể dùng đường bộ, chỉ hoàn toàn trông
vào không lực VNCH. Trong khi phi trường Biên Ḥa, phi trường Phước Long, và BTL/SĐ5
bị pháo liên tục th́ Sư đoàn 7 của địch, có tăng và pháo yểm trợ mỗi
ngày một xiết chặt ṿng vây quanh Phước Long. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III đă
không vận tăng cường đến Phước Long lực lượng Biệt Cách
Dù, một tiểu đoàn bộ binh và 3 đại đội trinh sát. Ngoài ra rất nhiều
phi tuần đánh bom quanh tỉnh lỵ. Nhưng v́ đánh giặc theo kiểu "con nhà nghèo",
bắn một viên đạn, thả một trái bom đều phải tính thành tiền, vả
lại làm ǵ c̣n B52 trải bom thảm theo yêu cầu nữa, lại không c̣n một lực lượng
Tổng Trừ Bị nào tăng phái cho Quân Đoàn, v́ thế Phước Long chỉ cầm cự
được thêm ít lâu và thất thủ vào ngày 6-1-1974. Đây là tỉnh lỵ đầu tiên
của VNCH bị địch lấn chiếm trong chiến dịch "tầm ăn dâu" hay là
"giành dân lấn đất".
Không biết do áp lực nào, Tổng Thống Thiệu đưa Tướng
Dư Quốc Đống về thay Tướng Thuần. H́nh như Tướng Đống cũng
lập kế hoạch giải tỏa và cần tăng viện một sư đoàn, nhưng
không được đáp ứng v́ không đủ quân, nên có ư xin từ chức. Rồi vài
tháng sau, Tướng Nguyễn Văn Toàn thay Tướng Đống. Tướng Thuần, Đống
hoặc Toàn làm tư lệnh, Phước Long vẫn nằm trong tay Việt Cộng và h́nh
như Phủ Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu đă quay mặt với lư do nơi
đây không phải là vị trí chiến lược quan trọng. Chỉ trong ṿng 3 tháng mà hai
lần thay Tư Lệnh quân đoàn bảo vệ Saigon. Rồi lại một tin không vui từ
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III truyền đi: Tướng Hiếu đă tử nạn!!!
Nghe tin này, người ta thực hoang mang và xúc động.
Trong khi đó, sau khi chiếm được Phước Long, Việt Cộng
tảng lờ những chống đối, lên án, tại Ủy ban kiểm soát đ́nh chiến,
tại Ban liên hợp quân sự v.v. cứ khăng khăng "chỉ đánh trả lại những
vi phạm Hiệp định Paris" của VNCH. Quan trọng hơn hết, Hoa Kỳ không có
phản ứng, hoặc phản ứng lấy lệ. Dĩ nhiên, đối với Hoa Kỳ,
chiến tranh VN đă là dĩ văng. Kể từ năm 1967, họ đă từng bước
lập kế hoạch, nào là thư từ qua lại, nào là đi đêm, hoạt động
con thoi, nào là qua trung gian các cường quốc rồi chiến tranh cục bộ, Việt
Nam hóa chiến tranh, rồi leo thang, rồi ném bom Hà Nội v.v. Cuối cùng, gần 6 năm
sau, đúng nửa đêm ngày 27 rạng 28-1-1973 giờ quốc tế, có một bản văn
được kư kết tại Hội nghị Paris với tên gọi "Hiệp Định về
Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam" theo nhu cầu và quyền
lợi của quốc gia Hoa Kỳ. Hơn 60,000 lính tác chiến Mỹ c̣n lại đă triệt
thoái. Hầu hết tù binh Mỹ được phóng thích, kể cả Đại tá Không quân John
McCain – đương kim ứng cử viên Tổng thống Mỹ – sau hơn 5 năm
đủ mùi vị đầy đọa, hạ nhục tại Hỏa Ḷ Hà Nội. Dù chẳng
phải không tiên liệu được tham tâm nhất thống miền Nam của Lê Duẩn
và Đảng Lao Động Việt Nam, nhưng TT Nixon và Ngoại trưởng Kissinger không có một
lựa chọn nào khác, đành vui hưởng cái gọi là "ḥa b́nh trong danh dự" [peace with
honor] từ mùa Xuân 1973. (Không biết đây có phải là Mỹ đă "thua" và phải "tháo chạy"
như có người đă nhận xét?).
Tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB, đầu năm 1975, Đại Tá Từ Vấn
giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng thay Đại Tá Chinh xin thuyên chuyển về trường
Hạ Sĩ Quan Nha Trang. Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường, theo trên cho biết, có liên
hệ đến vụ đảo chánh 11-11-1960, nên không được chấp thuận chức
vụ Tham Mưu Trưởng. Tướng Vỹ chỉ định Ông làm Phụ Tá Hành Quân.
Nh́n chung Quân đội VNCH giai đoạn này, đă ở thế thủ. Viện
trợ quân sự bị cắt giảm nhiều, không đủ lực mở những cuộc
hành quân quy mô, có tăng, có pháo và phi cơ yểm trợ đầy đủ như trước.
Tướng Vỹ cho biết, trong t́nh h́nh xấu nhất, Ông có thể cầm cự 6 tháng
không cần tiếp tế.
Nhưng Hà Nội bắt đầu phát động chiến dịch Xuân-Hè 1975,
với hy vọng làm ăn ở miền Tây nguyên. Ba sư đoàn Bắc quân, được
tăng pháo và đặc công yểm trợ, tấn công và chiếm được thị xă
Ban Mê Thuột, nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB vào thượng tuần
tháng 3-1975. Tư lệnh Quân đoàn II và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị bất ngờ.
Giữa lúc các lực lượng cơ hữu của QĐ II đang lo tái chiếm Ban Mê Thuột,
TT Thiệu triệu tập một phiên họp mật với Thủ Tướng Trần Thiện
Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên và Trung Tướng Đặng Văn Quang tại hành lang
Dinh Độc Lập, tiết lộ đă quyết định triệt thoái khỏi Pleiku và Vùng
I chiến thuật, rút về lập tuyến pḥng thủ Phan Rang - Ban Mê Thuột. Lư do chính
là phái đoàn Nghị sĩ mới từ Mỹ về cho biết viện trợ tài khóa 1975-1976
lại bị cắt giảm. TT Thiệu đành phải thực hiện chiến lược
"đầu bé, đít to" – cắt nhỏ dần lănh thổ kiểm soát, cốt sao
giữ được Vùng III và Vùng IV. Quyết định này được thông báo cho Tướng
Trưởng ngày 12-3-1975: Hoàn trả Nhảy Dù về Sài G̣n; nếu cần, triệt thoái Huế,
về giữ Đà Nẵng. Hai ngày sau, TT Thiệu cùng các Tướng Khiêm, Viên và Quang bay ra Cam Ranh,
họp mật với Tướng Phạm Văn Phú, và cho lệnh triệt thoái Kontum - Pleiku.
Tướng Phú đề nghị cho hành quân cấp Quân Đoàn dài theo Quốc lộ
7-B – từ ngă ba Thuần Mẫn trên lộ 14, xuống Cheo Reo (Phú Bổn), Củng Sơn,
rồi Tuy Ḥa. V́ lư do "bảo mật", ngay ngày 16-3, toàn bộ lực lượng QĐ II bắt
đầu rút khỏi Pleiku. Các lực lượng Cảnh sát, Địa Phương Quân và Nghĩa
quân đều bị bỏ lại. Ngay trong đêm 16-3, hỗn lọan đă bùng nổ ở
Pleiku, khi Sư Đoàn 6 Không Quân di tản gia đ́nh và thân nhân. Hàng chục ngàn dân chúng Pleiku
thu góp tài sản đổ về đường 7-B. Văn Tiến Dũng, dù bất ngờ,
cũng sai quân đuổi theo truy kích. Đoàn di tản bị kẹt đọng lại ở
Cheo Reo, và rồi Củng Sơn.
Quốc lộ 7-B trở thành địa ngục trần
gian cho những quân nhân QĐ II di tản. Toàn bộ xe tăng, thiết giáp và pháo bị lọt
vào tay CSBV. Chưa đầy 5000 người di tản t́m được về Tuy Ḥa. Tư
lệnh lực lượng bảo vệ, Chuẩn Tướng Tất, bị bắt sống.
Trực thăng cứu thoát được Chuẩn Tướng Cẩm, Tư lệnh phó
QĐ II, về Tuy Ḥa, nhưng sau này vẫn lọt vào tay CS.
Lư do TT Thiệu ra lệnh triệt thoái, tới nay vẫn c̣n là dấu hỏi
lớn, v́ đă mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn của miền Nam Việt
Nam. Người ta nghĩ rằng trước khi trở thành Tổng Thống, Ông đă là
một Trung Tướng, đă là Bộ Trưởng Quốc Pḥng, vậy th́ đằng sau
quyết định đó, có ẩn ư ǵ? ... Chỉ chắc một điều là quyết định
này không do Mỹ chỉ thị để có thể "tháo chạy". Đại tướng Khiêm và
Trung tướng Quang đă khiến các nhân viên Mỹ cực kỳ bực dọc v́ không thông
báo cho Mỹ biết việc này, khiến các nhân viên Mỹ ở vùng II và Vùng I thất điên
bát đảo.
Hạ tuần tháng 3-1975, sau khi cuộc triệt thoái cao nguyên trở thành thảm
bại, TT Thiệu cho lệnh Tướng Trưởng bỏ ngỏ các tỉnh Quân khu I,
rút về tử thủ Đà Nẵng. Nhưng ngày 29-3, Đà Nẵng bị bỏ ngỏ. Các tỉnh
duyên hải miền Trung cũng lần lượt sụp đổ như lâu đài trên băi
cát. Ngay đến Phan Rang, quê hương của TT Thiệu, cũng di tản từ ngày 2-4-1975.
Lữ Đoàn 3 Dù đang trên tàu về Sài G̣n, được lệnh đổ
bộ xuống Nha Trang, rồi từ đây kéo lên Khánh Dương, chốt chặn mức
tiến của SĐ 10 CSBV. Một Lữ đoàn Dù khác, cùng tàn quân SĐ 2 BB và SĐ 6 KQ, được
điều ra Phan Rang lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn III. Nhưng chốt
pḥng thủ chiến lược này bị cánh quân miền Đông của Lê Trọng Tấn, với
quân số hơn 1 quân đoàn, diệt gọn trong hai ngày 16/17-4-1975.
Ngày 18-4-1975, Long Khánh bỏ ngỏ. Tướng Toàn phải di tản Không quân
xuống Cần Thơ. Mặc dù hai Sư Đoàn 25 BB và 5 BB c̣n trấn giữ phía Tây Bắc
và Bắc Sài G̣n, t́nh thế đă tuyệt vọng. Bắc quân lên tới hơn 3 quân đoàn,
với tăng, pháo hợp đồng.
Tối 21-4-1975, TT Thiệu bàn giao cho Phó TT Trần Văn Hương, để
"trở lại chiến đấu bên các chiến hữu". Nhưng bốn ngày sau, hai ông Thiệu,
Khiêm bí mật rời Sài G̣n bằng phi cơ Mỹ. TT Hương cũng chỉ ở Dinh
Độc Lập được một tuần lễ, rồi ủy quyền cho Quốc Hội.
Chiều ngày Thứ Hai, 28-4-1975, Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm
chức Tổng Thống – với hy vọng đạt một giải pháp màu hồng
với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Điều Tướng Minh và nhiều
chuyên gia ngoại quốc không biết là vai tṛ MTDT/GPMN đă hầu như chấm dứt. Lê
Duẩn – người không ngừng cổ vơ "cách mạng là tấn công" – cho lệnh
phải giải quyết càng sớm càng tốt, nếu có thể trước năm 1976 như
dự định.
Tướng Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu không chọn đường
tử thủ. Sáng ngày 29-4-1975, Thủ Tướng Mẫu chính thức yêu cầu người
Mỹ rút khỏi VN, đóng cửa văn pḥng tùy viên quân sự (DAO) – một bước
ngoại giao có tính toán giúp Mỹ rảnh tay ra đi.
Cũng ngày 29-4-1975 này, Tướng Toàn và Bộ Tư Lệnh QĐ III từ Biên
Ḥa di chuyển về G̣ Vấp, 5km bắc Thủ đô Sài G̣n. Riêng Sư Đoàn 5, lực lượng
vẫn bảo toàn nguyên vẹn. Theo Tướng Vỹ, có thể địch tránh không muốn
đụng SĐ5, nên chúng pháo cầm chân và tiến quân về Sàig̣n theo hai hướng đông
và tây của Lai Khê, đồng thời đặt các nút chặn phía nam của Lai Khê, B́nh Dương.
Sư Đoàn 5 cũng được lệnh chuẩn bị di chuyển về phía nam để
tái phối trí. Sáng 30 tháng 4-1975, sau buổi họp Tham Mưu thường lệ chừng một
tiếng đồng hồ, người ta bàng hoàng nghe tin TT Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng. Ông c̣n nhân danh Tổng Tư Lệnh Quân Đội ra lệnh cho quân nhân các cấp
buông súng, chờ bàn giao! Đúng là sét đánh ngang tai!
Tướng Vỹ lúc đó ưu tư nhiều, vẻ mặt trầm lặng,
khác với bản tánh thường ngày. Ông tâm sự với một số sĩ quan tham mưu
thu hẹp bên cạnh, với nét mặt b́nh thản khác thường: "Lệnh trên đă ban
ra, phải thi hành. Hơn nữa, con em người ta giao cho ḿnh, không lẽ đem nướng
vào giờ thứ 25 sao? Đối với các anh em th́ tùy ư quyết định". Xong Ông đi về
phía trailer [pḥng lưu động của quân đội] dùng làm pḥng ngủ riêng cho Tư Lệnh.
Ít phút sau, hai tiếng nổ khô khan vọng ra. Mọi người hốt hoảng
chạy tới. Tướng Vỹ đă dùng khẩu súng ngắn của Ông để tự
sát. Vết đạn xuyên từ phía dưới cằm lên đầu. Các Sĩ Quan hiện
diện kính cẩn nghiêng ḿnh, không cầm được nước mắt. Lúc ấy là 12
giờ rưỡi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong khi mọi người vội vă đưa thi hài Tướng Vỹ an táng
tạm trong ṿng đai căn cứ th́ phía ngoài hàng rào, Việt Cộng dùng loa phóng thanh, âm lượng
thật lớn kêu gọi mọi người bên trong đầu hàng. Khoảng 3 giờ chiều,
Bộ Tham Mưu và các đơn vị mới tự động rời khỏi căn cứ,
không có súng nổ. Nhưng mới qua khỏi quận lỵ Bến Cát, bị địch chận
lại, tịch thu tất cả vũ khí, quân trang dụng. Hạ sĩ quan trở xuống
cho tự túc về điạ phương, sĩ quan giữ lại, phân theo cấp bậc
để đưa đi tù. Trang quân sử về Sư Đoàn 5 Bộ Binh chấm dứt ở
thời điểm này.
* * *
Từ lâu, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, rồi sau những năm tháng bị Việt
Cộng giam cầm, hành hạ, tôi đă có ư định ghi lại vài kỷ niệm về
Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Tướng Lê Nguyên Vỹ. Đă gần 33 năm trôi qua, tôi chưa thực
hiện được ư nguyện này. Khi c̣n ở trong nước cũng như kể từ
khi định cư tại Mỹ mười mấy năm trước, biết bao nhiêu câu
hỏi của bằng hữu, của đồng đội, của người thân xoáy sâu
măi trong tâm trí tôi. Ai cũng yêu cầu tôi nói đôi điều về Tướng Vỹ. Tôi
biết ở đâu đó, rải rác một vài ḍng trên báo chí, hay vài phút trong một chương
tŕnh phát thanh tiếng Việt, không đủ thỏa măn người đọc, người
nghe. Lại nữa, tôi là một sĩ quan của Sư Đoàn 5BB, suốt 10 năm rưỡi
trong quân ngũ, 2 năm dành cho quân trường và một đơn vị ngoài SĐ, 8 năm rưỡi
c̣n lại dành cho Sư Đoàn 5 và tôi đă khoác quân phục mang phù hiệu SĐ5 tới ngày cuối
cùng. Ai mà không hănh diện khi có dịp nhắc đến đơn vị của ḿnh, lại
c̣n hănh diện hơn nữa khi nhắc đến cấp chỉ huy đơn vị đă
anh dũng, can đảm tuẫn tiết, quyết không chấp nhận đầu hàng địch.
Ngày nào chưa ghi được đôi ḍng, dù là không đầy đủ lắm về Tướng
Lê Nguyên Vỹ, tôi c̣n rất áy náy, như gánh nặng chưa trút xuống được và
thấy ḿnh mắc một món nợ chưa kịp trả. Món nợ ấy là niềm hănh diện
mà Tướng Vỹ đem lại cho SĐ5 BB nói riêng và Quân lực VNCH nói chung. Tướng Vỹ
là người lính chiến đấu ngoài mặt trận với đầy đủ cái
OAI cái DŨNG của nhà Tướng. Tôi cũng muốn nhắc nhở một sự thực
mà người ta muốn chối bỏ là Miền Nam có nhiều dũng tướng, thành mất,
Tướng phải chết theo thành, như Tướng Lê Nguyên Vỹ đă làm.
30 tháng 4-1975, ngày tang lớn. Những bàng hoàng, xúc động sau 33 năm, nay
đă lắng dịu phần nào. Cuộc sống nơi xứ người và tuổi 70 khiến
tâm trí tôi b́nh thản hơn. Đôi ḍng đơn sơ trên là những sự thực về Tướng
Vỹ mà tôi biết, dĩ nhiên chưa phải là tất cả. Dẫu sao, đây là những
ḍng tâm thành, thay nén nhang dâng lên tưởng niệm vị anh hùng dân tộc Lê Nguyên Vỹ nhân
ngày giỗ thứ 33 của người.
|
Subject: |
Vài nét về một anh hùng: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn |
|
Author: |
VNAF540 |
|
Tác giả: Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
Vài nét về một
anh hùng: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn
sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ
quan trong quân đội Quốc Gia Việt Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không
hề bị bệnh tật ǵ. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên.
Tính t́nh hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi
học (1945) th́ chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn.
Măi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy
ǵ làm giỏi cho lắm, thường th́ chỉ đứng trung b́nh trong lớp. Năm 1951,
phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu Sinh Quân.
Thời điểm này, trên toàn lănh thổ VN có 7 trường
TSQ, phân phối như sau :
– Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở
Gia-Định.
– Trường TSQ đệ nhị quân khu ở
Huế.
– Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-Nội.
– Trường TSQ Móng-Cáy dành cho sắc dân Nùng.
– Trường TSQ đệ tứ quân khu ở
Ban-Mê-Thuột.
– Trường TSQ Đà-Lạt của quân đội
Pháp.
– Trường TSQ Đông-Dương của quân đội
Pháp, ở Vũng-Tầu.
Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp
nh́ trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương
tŕnh Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ
nhất quân khu di chuyển từ Gia-Định về Mỹ-Tho.
Khi hiệp định Genève kư ngày 20-7-1954, th́ ngày 19 tháng
8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-Nội vào, sát nhập
với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-Tho. Niên học 1954-1955, trường
TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương tŕnh Việt, và chỉ
mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục
A, giáo sư dạy Việt-Văn là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực
là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương tŕnh Việt
từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-Văn.
Trong năm học, có chín kỳ luận văn, th́ bài của Cẩn được tuyển
chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của
Cẩn chỉ đứng thứ nh́ trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu
làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ
lăng mạn.
Ghi chú.
Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong
thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật.
Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-Ḥa, rồi
làm bộ trưởng Lao-Động, rồi thẩm phán ở Phước-Tuy, rồi lại
làm bộ trưởng Lao-Động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Houston, bang Texas,
Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.
Hết năm học, Cẩn đă 17 tuổi. Theo học
quy của trường TSQ, th́ khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học
hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. C̣n như mười
bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc th́ được
giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ
Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-Trường Vơ Khoa Thủ-Đức,
về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc
nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc
nh́, và bắt đầu kư đăng vào quân đội với cấp bậc binh nh́.
Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế
dành cho các TSQ Pháp trong thời b́nh. Một học sinh ra trường, th́ ba tháng đầu với
cấp bậc binh nh́, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ
sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn
luyện viên về vũ khí.
Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại
một vài vùng. Sang năm 1961 th́ lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu
sĩ quan, bộ Quốc-Pḥng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được
nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ,
có bằng Trung-Học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt
của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một
cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội
đủ tŕnh độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được
nhập học.
Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt
này, đă cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương
mẫu, anh hùng trên chiến trường.
Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc
biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của
Tổng-Thống Ngô Đ́nh-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn
úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục
vụ tại các binh chủng : Dù, Thủy-Quân Lục Chiến (TQLC) , Biệt-Động Quân
(BĐQ), Quân-Báo, An-Ninh Quân Đội, và Lực-Lượng Đặc Biệt (LLĐB).
Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học
một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42
chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lănh thổ
khu này gồm các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh), Chương-Thiện, Sóc-Trăng (Ba-Xuyên),
Bặc-Liêu, Cà-Mâu (An-Xuyên). Về sau, v́ t́nh h́nh chiến tranh thay đổi, quân cộng-sản
từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại
đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội
BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số
42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn
Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh
là Cọp xám U-Minh Hạ.
Tôi đă gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ ? Tại
đâu ? Câu truyện như thế này :
Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt
truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về « Ngụy Tây-sơn », có rất
nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại
rừng U-minh. Tôi nảy ra ư xuống vùng tận cùng của đất nước này t́m hiểu
thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, « các thầy mang
bàn thờ xuống đường » , chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi
động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, v́ đi như vậy
dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của
tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói « Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn
tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau ». Tôi nhất quyết
đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu
lưu và mê sưu tầm của tôi.
Nhưng làm thế nào để có thể được
vào tất cả những làng, những xă, mà không gặp trở ngại ? Làm sao có phương
tiện di chuyển ? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đă kiếm cho tôi
cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris.
Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-Cảng.
Thế là tôi bỗng trở thành kư giả bất đắc dĩ. Tôi đến bộ tư
lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến
thuật. Tôi chỉ mong t́m hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm kư giả !
Nhưng sau chuyến đi ấy, quá xúc động về
cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đă viết rất nhiều bài kư sự chiến trường,
đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước
cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi
tuổi, làm nữ cán bộ Xây-Dựng Nông Thôn tại kinh Tắc-Vân, Cà-Mau. Tôi là thầy thuốc,
mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài « Giang biên hoa lạc » gây xúc động
mạnh cho độc giả Hương-Cảng và giới Hoa-Kiều tại VN. Sau tôi có dịch
bài này sang tiếng Việt với tên là « Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-Vân » . Tôi gửi bài
này dự thi giải kư sự chiến trường của Cục Tâm-Lư Chiến năm 1967.
Bài của tôi được giải nh́. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài
kư sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi « Về nội
dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ
quên ḿnh cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, c̣n bài của cháu th́ ướt
át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thực ».
Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết
về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài « Ngũ Hổ U-Minh Thượng », kể chuyện năm
tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong
lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :
· Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn,
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,
· Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.
· Thiếu-tá Nguyễn
Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,
· Thiếu-tá Lê Văn-Hưng
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.
· Đại-úy Vương
Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.
Ghi chú:
Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người
th́ Kiệt tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử, Cẩn
bị xử bắn. C̣n Trổ , sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-Giang,
hiện định cư tại Houston, bang Texas, Hoa-Kỳ. C̣n Huy tôi không biết sau ra sao ?
Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-Lợi
bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-Kỳ. Người đón tôi là thiếu tá
Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại
tá cố vấn trưởng Hathaway không biết ǵ về chủ đích chuyến đi của
tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng
tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm kư giả. Ông cho tôi biết t́nh
h́nh địch rất chi tiết. Về t́nh h́nh quân đội VN tại năm tỉnh tận
cùng của đất nước, ông nói :
– « Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc
quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn
31 đóng tại Chương-Thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-Mau. Trung-đoàn 33 đóng
tại Ba-Xuyên. Ngoài ra c̣n có hai tiểu đoàn Biệt-Động Quân mang số 42 và 44. Tiểu
đoàn 42 đóng tại Bặc-Liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-Xuyên ».
Ông ca tụng quân đội VN như sau :
« Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi
là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ
chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng
phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó ».
Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi
được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-Động Quân. Tiểu đoàn trưởng
là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái
tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn đoàn th́ tôi là kư giả. C̣n Kiệt
với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ t́nh nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn
được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-Lợi, từ bẩy
giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, th́ tiểu
đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ
Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nh́ gồm đại đội 3 và đại đội
chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang
ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập vơ, coi trời bằng vung,
lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố
vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi :
– Lần đầu tiên ra trận, « sơ » có sợ
không ?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch
sử Việt-Nam :
– Tráng sĩ khi ra trận, không chết th́ cũng bị
thương. Nếu sợ chết th́ đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đă học quân sự chưa ? Tôi đáp
:
– Kiến thức về quân sự của tôi chỉ
bằng phó binh nh́ thôi. Nhưng cũng biết ḅ, biết núp, biết nhảy, biết bắn.
Đánh nhau bằng súng th́ tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến th́ tôi có hạng,
v́ tôi là ông thầy dạy vơ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ
khen tôi :
– Ông bác sĩ này ngon thực !
Tôi hỏi Kiệt :
– Trong hai cánh, th́ cánh nào có hy vọng được
đánh nhau nhiều hơn ?
Kiệt chỉ Cẩn :
– Anh cứ nhảy theo thằng này, th́ sẽ toại
nguyện. Tha hồ mà hành nghề.
Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt
phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu.
Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dă chiến. Khoảng mười
giờ th́ có lệnh : Một đơn vị địa phương quân chạm địch
tại Vĩnh-Châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-Trăng. Tiểu đoàn
phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy
là một khu đồng lầy.
Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn
tắt nhiệm vụ, t́nh h́nh trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại
đội đă lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng.
Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng
bẩy phút, th́ Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt :
– Ḱa, chỗ chúng ḿnh đáp ḱa.
Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm
người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi
quên : Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ
ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nh́n về trước.
Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây
dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy,
vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nh́n một lượt, các sĩ quan, người
th́ nằm, người th́ quỳ, cũng có người đứng.
Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ,
mà đứng quan sát trận ḿnh, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ
sấm, hai là tự tin vào số tử-vi của ḿnh thọ, tôi cũng đứng.
Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nh́ đă nhảy
xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, th́ sĩ quan đề lô xin pháo binh nă vào
những chỗ có ổ moọc-chê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra,
hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong
khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước,
bụi, nước bắn tung.
Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách b́a làng không
đầy năm mươi thước, th́ súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng
quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn
lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, th́ không kịp, viên đạn xuyên qua
sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng vơ trang được gọi đến.
Cố vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh
cho phi công trực thăng nă xuống địa điểm có địch quân.
Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất.
Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội,
trung đội qua hiệu thính viên.
Sau khi trực thăng vơ trang nă ba loạt rocket, đại
liên, th́ lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi
người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau,
tiếng súng im hẳn.
Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh
bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải
về quân y viện. C̣n như bị thương nhẹ th́ được điều trị
tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng,
nghe tôi nói rằng : Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương
đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện,
xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong
hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn :
– Tôi tưởng, thương binh được về
quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, th́ là điều họ mong muốn mới phải.
Tại sao họ muốn ở lại ?
– Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống
với nhau, kề cận cái chết với nhau, th́ xa nhau là điều buồn khổ vô cùng.
Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy
chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.
Tôi đi một ṿng thăm trận địa. Hơn hai
trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương
mặt c̣n non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái th́ nằm vắt
vẻo trên bờ kinh, cái th́ bị cháy đen, cái th́ mất đầu. Cũng có cái nằm
chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, th́ cha mẹ, anh em,
vợ con họ có biết không ?
Sau trận đó th́ Cẩn được thăng cấp
đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu
đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên
của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ
quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với ḿnh.
Cẩn đă được thỏa măn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn :
– Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích
ǵ ?
– Một là để dễ sai. Tất cả bọn
cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp
trên của chúng nó, mà chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay
tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà
tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết
th́ chết chứ không lùi, v́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh,
th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.
Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung
hoành trên khắp lănh thổ năm tỉnh Hậu-Giang, khi Đại-Ngăi, khi Tắc-Vân, khi
Kiên-Hưng, khi Thác-Lác, khi Cờ-Đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được
thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân
đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên
tôi đọc rất kỹ Lục-Thao, Tam-Lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các
danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-Quân. Tôi dùng kiến
thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn
từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được
học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy,
cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh
của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lư thuyết trong thư tịch cổ
?
Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan
1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn
được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-Lộc. Cuối
năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường śnh lầy với chức
vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-Thiện. Lần cuối
cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-Thiện. Tôi hỏi Cẩn :
– Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm
tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không ?
– Tôi lặn lội suốt mười bốn năm
qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung
đoàn là cao rồi. Ḿnh phải biết liêm sỉ chứ ? Coi sư đoàn sao được.
– Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm ǵ ?
– Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm
nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ
tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội
trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được
trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn
ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ
nên đặt tên là ǵ ?
– « Cẩm nang của các đại đội trưởng,
tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy
». Nhưng liệu bộ Quốc-pḥng có cho phép in hay không ?
– Không cho in th́ ḿnh cũng cứ thuật, rồi đem
giảng dạy, ai cấm được ?
Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với
Cẩn.
Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức
của Cẩn. Măi năm 1976, tôi được tin : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng
mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh
đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-Thiện,
th́ gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị
đem ra xử tử.
Ghi chú:
Tại Sài-G̣n 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự
tại các đơn vị dù chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-Thiện
kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-Sinh-Quân c̣n
kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-Tầu. Nếu tôi không lầm
th́ các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.
Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:
Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở
Berlin), xuất thân trường Thiếu-Sinh-Quân Hà-Nội, sau di vào Mỹ-Tho. Trung-tá Địch
đă sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-Sinh-Quân Mỹ-Tho. Thời
gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.
Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ
danh Vũ-Thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân
Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu
đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu
tiểu khu Chương-Thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc
Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.
Cuộc xử án như sau:
Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn
lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-Thiện cho
dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười,
vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là ṭa án nhân dân được lập ngay trước ṭa hành
chánh. Sau khi quan ṭa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy
trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn
nhân của Cẩn th́ đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích.
Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không
có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi : Những ai đồng ư xử tử Cẩn
th́ dơ tay lên ! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại.
Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn
ra ở sân vận động thể thao Cần-Thơ. Lần này người ta chuẩn
bị kỹ hơn, người ta cho tụi ḅ-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản
cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn
đă nợ máu với ai, th́ hăy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ
hỏi : Ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay. Ḅ vàng dơ tay, một số dân
chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không đơ tay.
Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội
mà ṭa án nêu ra không ? Cẩn cười nhạt :
« Nếu tôi thắng trong cuộc chiến,
tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như
các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu
cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội
tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn
giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt ».
Rồi Cẩn hô:
« Đả đảo cộng-sản.
Việt-Nam muôn năm »
Sau khi Cẩn bị băn chết, dân chúng hiện diện
khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm
chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống.
Nắng mưa là hiện tượng b́nh thường của
trời đất. Nhưng dân chúng Cần-Thơ th́ cho rằng, trời khóc thương cho
người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước.
Khi tôi gặp Cẩn, th́ tôi chưa khởi công viết lịch
sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ
quanh Cẩn, in vào tâm năo tôi rất sâu, rất đẹp. V́ vậy sang năm 1968, khi bắt
đầu viết, th́ bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu
của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận
chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.
Có rất nhiều người đặt câu hỏi : Giữa
tôi và Cẩn như hai thái cực . Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được
học ở nhà, ở trường đến tŕnh độ cao nhất. Cẩn là người
Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo. Tôi th́
sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn th́ lăn lộn với thực tế. Tôi
không biết uống rượu, Cẩn th́ nổi danh tửu lượng cao nhất sư
đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn
th́ rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ
giăi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người
thứ nh́ biết được. Tại sao ? Cho đến nay, tôi mới trả lời được
rằng : Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những h́nh bóng thực,
rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được
gặp trong thực tế.
Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ
trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy,
vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và
cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong ṿng tay người.
Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn
mà không phê b́nh, v́ Cẩn là bạn thân của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp
đẽ để tặng Cận.
Viết tại Paris ngày 30 tháng tư năm 1996
Yên-Tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.
|
|
1. Có một thời công chuyện làm ăn khó khăn, tôi mua một chiếc
ghe nhỏ, theo anh em làm nghề dân chài, đi đánh cá Salmon. Đó là thời vàng son cách đây
hơn 10 năm của "làng" ghe đánh cá Salmon gốc Việt ở British Columbia, Canada. Làm 4
tháng, nghỉ 8 tháng ăn lương thất nghiệp. Tôi thấy cái 8 tháng ăn lương
thất nghiệp có vẻ ngon cơm, đi đó đây nói chuyện, viết lách, hội thảo,
biểu t́nh… mà không sợ vợ con ở nhà ăn ḿ gói… Đó là lư do tôi thành "dân chài",
mặc dù cái thuở ban đầu lạng quạng ấy, tôi không biết vá lưới, không
biết mặt con cá Salmon nó dài ngắn, méo tṛn ra sao… Đúng là liều mạng! Ta đi trong tuyết ươm hơi lạnh
Mà lửa từ tim vẫn nhóm hồng
Với lá quốc kỳ trên ngực áo
Ta thấy c̣n hơi ấm non sông…
Thuở đó, Ba tôi c̣n sống, ở Việt Nam, nghe tin tôi ra biển, ông than trời, v́
biết tôi không thể là dân làm biển. Ông tưởng tượng tôi đi chân trần, vát
lưới ra biển, mặt mày đen như cục thang hầm, nhấp nhô trên sóng nước…
như mấy ông dân chài Phan Thiết ở Lạc Đạo, B́nh Hưng, Thương Chánh…
rồi nghĩ đến cái thời "vàng son" khi tôi từ đơn vị về thăm nhà,
ngừng xe jeep trước cửa, bông mai trên bâu áo, ra trường Thủ Đức mấy
năm mà vóc dáng vẫn chưa tan nát nét thư sinh, ông lấy làm hănh diện với bà con làng
xóm… Ông thở dài, và khi biển động, băo tố ở biển Phan Thiết xa Canada
gần nửa quả địa cầu, ông lại đứng ngồi không yên nh́n ra biển
rộng tưởng chiếc ghe tôi đang quay cuồng trong cơn băo, tưởng chừng
khi biển Phan Thiết động th́ sóng Canada cũng vỗ ầm ầm… Ba tôi than trời
là đúng, tôi ra biển nhiều lần song vẫn bị say sóng hộc máu, lưới quăng
xuống nước, cá buồn t́nh trốn mất tiêu… và cuối cùng, tôi bán ghe sau 5 năm
chọn lầm cái nghề "Hà Bá" chê lỗ vốn này.
Tôi thương Ba tôi khi nghĩ đến ông, nhưng ông xa tôi ngh́n trùng. Cái gần gũi
theo tôi lên ghe ra biển là cái "c̣m piu tơ" Mac Intos và mấy cái thư của cô bé gái 10 tuổi
con tôi. Tôi làm nghề biển mà không bỏ được cáo nghiệp… báo. "Nghiệp báo!"
Đúng là Phật dạy ngh́n năm trước không sai! Báo ở đây là nghề viết
lách trăm cay ngàn đắng cùa những tên cầm bút c̣n chút liêm sỉ và lương tâm…
chứ không phải là thứ nghiệp báo trầm luân địa ngục ǵ cả!
Khi mỗi lần ghe vô bến, bán cá và vá lưới xong, tôi kéo giây điện gắn vô
máy và gơ lọc cọc. Bài vở, tin thức lấy từ báo Tây và cái radio… rồi nhét
vô cái đầu cho nó làm việc, xong sang/copy vô cái disket gửi qua Toronto cho chủ nhiệm
Bùi Bảo Sơn… Tạp chí Lửa Việt v́ thế mà tôi vẫn có mặt, cho dù tôi lênh
đênh trên sóng nước theo đuôi bầy cá Salmon...
Có một hôm, thả lưới xong, tôi bóc cái thư cô bé gái gửi cho bố, tôi vô cùng
xúc động. Thư con tôi có mấy ḍng tiếng Anh "con nhớ Daddy! Con nhớ Daddy!" mà trên
đầu thư con tôi vẽ một lá quốc kỳ mầu vàng ba sọc đỏ bằng
bút ch́ mầu. Th́ ra con tôi biết lá cờ trên bàn tôi là ǵ, và những ǵ tôi giải thích cho nó
biết… Đọc thư con, nh́n những ḍng chữ con nít, nh́n lá cờ… tôi thấy
cả một vùng biển cửa sông Skeena gần Alaska ấm lại…
2. Tại Mỹ cũng như tại Canada, tờ lịch vừa qua bước
vào ngưỡng cửa tháng 12 là thiên hạ chuẩn bị cho mùa Giáng sinh. Một hôm cô bé lớp
tiểu học con tôi về nhà, vừa bỏ sách vở xuống bàn là nó kéo tôi ra pḥng khách:
- Ông thầy trường con gắn cờ Việt cộng trên cây Giáng sinh đó Ba! -
Sao con biết đó là cờ Việt cộng? - Th́ có lần ba chỉ con cờ đỏ
sao vàng là cờ Việt cộng, là cờ bỏ tù Ba, là cờ mà Ba Mẹ phải chạy trốn.
Con ghét lá cờ đó lắm! Tại sao trường không treo cờ ḿnh Ba?
Tôi bảo con tôi:
- Con giỏi lắm! Ba thương con lắm! Ba với con lên trường, con chỉ
cho Ba lá cờ Việt cộng trên cây Giáng sinh nhen!
Cô bé nhanh nhẩu:
- Con dắt Ba đi liền được không Ba?!
Trường cách nhà tôi chỉ vài trăm mét. Hai cha con vô trường, và quả đúng
như lời cô bé, một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ chen giữa những lá cờ các
quốc gia khác được trang trí gắn trên cây Giáng sinh sặc sỡ những bong đèn
màu nhấp nháy. Tôi dắt con vào xin gặp ông hiệu trưởng, giải thích cùng ông về
lá cờ, về kiếp nạn của dân tộc Việt Nam, và hơn nửa triệu người
Việt Nam bỏ nước vượt biển ra đi,vùi thây trong biển cả chỉ
v́ lá cờ này… Và lá cờ cờ đỏ sao vàng là cơn ác mộng của tôi, gia đ́nh
tôi, dân tộc tôi.
Ông thầy Canada nghe tôi giải bày, cảm thức những xúc cảm của tôi khi tôi nói,
ông hiểu ra, và khi tôi bảo ông rằng tôi sẽ làm đơn chuyển con tôi đi trường
khác học nếu ông c̣n giữ lá cờ đỏ này trên cây Giáng sinh. Ông từ tốn dắt
cha con tôi ra cây Giáng sinh, gở bỏ lá cờ đỏ sao vàng, và quay lại hỏi con tôi:
- Con muốn thầy thay lá cờ nào lên đây?
- Dạ, lá cờ con làm ở nhà!
- OK, mai con đem cờ con làm lên trường nghe!
- Dạ! Mai con đem lên! Con cám ơn thầy!
Đêm đó, nhỏ bé con tôi hí hoáy cắt giấy, tô vẽ một lá cờ vàng ba sọc
đỏ nhỏ xíu. Sáng hôm sau nó lên trường thật sớm. Giờ ăn trưa, nó chạy
một mạch về nhà:
- Daddy! Cây Giáng sinh ở trường thầy con cho gắn một lá cờ vàng như lá
cờ của Ba để trên bàn. Con làm lá cờ đó hồi hôm Ba biết không?
- Ba biết! Ba biết! Ba thấy con làm! Con giỏi lắm! Ba thương con!
Tôi ôm con tôi vào ḷng, hôn trên trán nó, và tôi thấy Vancouver ấm cả một trời mùa Đông…
3. B́nh là một thuyền nhân tỵ nạn đi chui, nghĩa là anh em hắn
phóng lên ghe tôi giờ chót khi tôi và đám bạn đẩy ghe ra biển. Đến Canada, hắn
ở cùng thành phố Vancouver với tôi. Khá lâu không gặp, có lần tôi lang thang trong chợ
Longdale Market ở North Vancouver, gặp hắn làm nhân viên security trong chợ, có job tốt, vợ
con, nhà cửa đàng hoàng. Tôi mừng là anh em chúng tôi không tên nào chết trên biển, không tên
nào thất nghiệp và ba trợn khi đến xứ người… Tôi không mong ǵ hơn.
Khoảng một tuần sau đó, bất ngờ B́nh phone tôi:
- Anh Hai, sáng nay tôi vô làm, thấy thằng manager cho giăng một dăy cờ trên gần nóc
ḷng chợ, có cả cờ đỏ sao vàng. Tôi x́ nẹt và cự lộn với nó!
- Bộ không sợ nó đuổi sở sao?
- Đuổi, tôi t́m chỗ khác làm, chịu nhục làm ở đây mỗi ngày thấy lá
cờ này tôi chịu không được! Thằng manager thấy tôi nóng, lúc đầu nó ngạc
nhiên, sau tôi giải thích nó hiểu ra, nó đồng ư bỏ lá cờ đó, nhưng nó ra điều
kiện là tôi phải tự vô kho mang thang ra leo lên tháo cờ, và thay vào bất cứ một
lá cờ quốc gia khác mà tôi không "up set, không nhức đầu" ngay hôm nay. Nó không chấp nhận
để giây cờ trong chợ có một khoảng trống. Anh có lá cờ quốc gia nào sẳn
ở nhà, lái xe mang gấp qua cho tôi trước khi chợ đóng cửa!
- OK, chuyện ǵ chứ chuyện này tao bay qua liền!
Mặc dù thằng em thuyền nhân đi chui của tôi nó không tham gia sinh hoạt đấu
tranh nào, năm 1975 nó c̣n nhỏ, chưa đi lính, nhưng nó có tinh thần quốc gia ngon lành,
và phản ứng hết sẩy, ngon lành hơn bất cứ ai "ăn cơm quốc gia thờ
ma Việt vẹm".
Ngày hôm nay, ai thăm chợ Longdale Market ở North Vancouver, Canada vẫn c̣n thấy trên nóc
chợ một lá cờ vàng ba sọc đỏ giăng giữa hàng cờ các quốc gia khác,
đó là lá cờ của tôi và B́nh. Hạ được cờ đỏ VC, treo lên lá cờ
vàng trên nóc chợ ở Canada là một kỷ niệm khó quên của anh em tàu BI 25803 của tụi
tôi khi vào Pulau Bidong năm 1980 trước đây.
4. Tại Canada, tỉnh Alberta là nơi lá cờ vàng ba sọc đỏ
được treo thường trực tại hai thành phố Calgary và Sandre. Chế độ
Hà Nội nhiều lần cay cú và can thiệp yêu cầu kéo xuống, nhưng chính phủ các
cấp Alberta vẫn lạnh như tiền, quyết tâm giữ lá cờ của cộng đồng
Việt Nam tỵ nạn cộng sản là một yếu tố quan trọng để nhà
nước Alberta "gửi gió cho mây ngàn bay những lời phản đối, yêu cầu của
Hà Nội" .
Những đồng hương Việt Nam có dịp ngang qua Calgary, ngay trên góc xa lộ
Deerfoot và International Avenue ( đường 17), sẽ thấy có một công viên treo một dọc
cờ các quốc gia tự do trên một hàng trụ cờ, và lá cờ vàng ba sọc đỏ
tung bay giữa hàng cờ đó.
Thành phố Vancouver cờ vàng ba sọc đỏ xuất
hiện trong một t́nh huống rất lư thú. Trên đường Kingsway, một trong nhưng
con đường chính của thành phố đẹp nhất Bắc Mỹ này, gần giữa
hai góc đường số 10 th Ave và 11 th Ave, có một hảng bán xe khá đắc tiền
có tên là Tecnique Auto Sale. Bỗng một hôm, bà con Việt Nam đi xe bus ngang hảng xe, thấy
một hàng cờ trong đó có lá cờ đỏ sao vàng tổ bố. Thế là nhiều cú
phone gọi tới tấp tới anh em Hội Cựu Chiến Sĩ và Hội Thủ Đức
Vancouver:
- Trời ơi mấy ông ơi! Tụi Việt cộng nó treo cờ đỏ sao vàng trên
đường Kingsway! Bây giờ mấy ông làm sao chớ!
- Chỗ nào Bác!
- Chỗ tiệm bán xe trên đường Kingsway, gần góc 11!
- OK bác! Tụi cháu đến đó ngay!
Tôi và Trần Văn Trung SĐ18 phóng xe đến
đó, và y như rằng, lá cờ đỏ sao vàng "đang giỡn mặt bà con" dưới
trời Vancouver. Tôi và Trung vào hảng xe, tự giới thiệu là đại diện cho Hội
Cựu Chiến Sĩ và Hội Vơ Khoa Thủ Đức thuộc cộng đồng Việt
Nam, xin gặp manager…
- Thưa ông, sao hôm nay hảng ông lại có sang kiến treo 12 lá cờ trước hảng
xe, và tại sao lại có lá cờ đỏ sao vàng?
- Hảng tôi buôn bán xe, 12 lá cờ được treo là 12 sắc dân đông đảo có
mặt sinh sống tại vùng Vancouver Mainland và vùng phụ cận. Người Việt các ông
trong vùng này theo tôi đoán có khoảng 40 ngàn dân, do đó tôi treo lá cờ đỏ sao vàng của
nước ông!
Tôi biết ngay là hảng xe có một sự nhầm lẫn "vĩ đại và vô t́nh".
Tôi từ tốn giải thích:
- V́ nhu cầu buôn bán, hảng ông mới treo các lá cờ quốc gia của các sắc dân.
Chúng tôi đến đây với thiện chí là giúp các ông tránh khỏi những hiểu lầm
không lợi cho việc buôn bán của hảng ông. Việc treo các lá cờ khác, chúng tôi không có
ư kiến, nhưng treo lá cờ đỏ sao vàng th́ không nên?
- Tại sao/Why? Xin ông nói rơ hơn!
- Thưa ông, lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của đảng cộng sản Việt
Nam và đảng đó đă áp đặt thành cờ của nước Việt Nam cộng
sản; lá cờ đó không đại diện cho nước Việt Nam tự do của chúng
tôi. V́ lá cờ này mà dân tộc tôi đau khổ, v́ lá cờ này mà chúng tôi phải bỏ nước
ra đi và có mặt ở đây, v́ lá cờ này mà nửa triệu người Việt Nam vùi
thân trong ḷng biển trên đường t́m tự do. Quư hảng treo lá cờ này là khơi lại
niềm đau, nỗi hận của 40 ngàn người Việt sinh sống ở đây, và
họ sẽ không vào xem xe các ông, không mua xe các ông, và họ có thể tập trung hàng ngàn người
biểu tỉnh chống lá cờ đỏ trước hảng ông…
Người Manager hiểu ra ngay sự t́nh, và ông đồng ư. Ông cho người tháo lá
cờ đỏ sao vàng xuống. Nhưng ông bỗng nói:
- Tháo lá cở đỏ xuống th́ một trụ cờ bỏ trống…
- Vậy ông có thể thay lá cờ vàng Việt Nam của chúng tôi lên được không?
- OK được! Chừng nào ông giao lá cờ đó cho chúng tôi?
- Ngay hôm nay!
Chúng tôi cho Trung bay về trụ sở Hội Cựu Chiến Sĩ mang đến hảng
xe lá cờ vàng ba sọc đỏ. Hảng xe hí hoáy móc vào thanh ngang của trụ cờ nhưng
không được, v́ cờ không có lổ ngang đủ rộng. Người manager không trả
lại cờ, ông giữ lại và mang vào office. Chúng tôi cám ơn ông và từ giả hảng
xe.
Trên đường về, tôi nói với Trung:
- Đem được cờ đỏ VC xuống là tụi ḿnh thắng VC 1-0 rồi!
Chuyện họ treo cờ ḿnh lên được th́ càng tốt, không có cũng không sao, miễn
là đừng có cờ đỏ sao vàng treo lên trong thành phố này là OK.
Mấy hôm liền sau đó, chúng tôi cứ lái xe lạng qua lại trước hảng
xe xem có ǵ lạ không. Cây cột cờ vẫn để trống, không cờ đỏ, không
cờ vàng. Tôi nghĩ bụng, chắc hảng xe muốn giữ thái độ trung lập.
1-0 là tỷ số chấp nhận được. Nhưng ngày hôm sau nữa, khi tôi lái xe qua
đường Kingsway để ư cây trụ cờ trống như thường lệ, mắt
tôi sáng lên khi thấy lá cở vàng ba sọc đỏ rực rỡ, mới toanh đồng
dạng với hàng cờ các nước khác, tung bay trong gió. Th́ ra hảng xe thuê may lá cờ
vàng theo mẫu lá cờ chúng tôi cho hảng nhưng có một lỗ ngang để luồn vào.
Họ đă giữ lời hứa treo lá cờ vàng.
Tôi phone Trung và các bạn:
- Hạ VC thêm một quả nữa! 2-0!
- Cái ǵ?
- Hảng xe treo cờ ḿnh, đẹp, mới toanh, rực rỡ! Gặp nhau tại Hội
quán ngay. Phone cho mấy ông thần nước mặn của ḿnh luôn. Ứng tiền mua giùn
một cái thiếp cám ơn, mộ bó hoa, một case beer, lấy ở nhà một chai rượu
chưa khui…
- Để làm ǵ?
- Tặng hảng xe, sao đó ḿnh khao quân!
- Nghe 5, nhận 5!
Nội trong hôm đó, chúng tôi đă tiếp xúc cám ơn hảng xe, để lại trong
văn pḥng họ một chai rượu, một case beer, một bó hoa và một thiệp cám
ơn… nhân danh Cộng đồng Người Việt vùng Greater Vancouver, Hội Cựu
Chiến Sĩ và Hội Vơ Khoa Thủ Đức Vancouver… Và cuối tháng, khi báo Việt
Nam Vancouver ( một ấn bản địa phương của Nguyệt San Việt Nam) ra
ḷ, chúng tôi đă gửi cho hảng xe 40 số báo free mà trang b́a là 1 trang quảng cáo cho hảng
xe không lấy tiền. Quảng cáo nẳm ngay nơi trang b́a sau tờ bào với lá cờ vàng
ba sọc đỏ tung bay.
Đây là lá cờ vàng ba sọc đỏ duy nhất tại
Vancouver rực rỡ, lồng lộng trong nắng tại Vancouver, bất chấp những
cú phone và văn thư khiếu nại, phản đối của sứ quán cộng sản
tại Ottawa. Tỷ số 2-0 này sẽ tồn tại cho đến ngày tàn trận đấu
dài mà thời gian trận đấu được tính bằng năm, bằng tháng trên nỗi
đau của dân tộc…
*
Hiện nay, âm mưu và nổ lực của tà quyền Taliban VC ở Hà Nội vẫn
c̣n đang tiến hành quyết liệt: Phân hóa cộng đồng Việt Nam ở hải
ngoại, lăng nhục cuộc chiến đấu chính nghĩa của QLVNCH và bôi bẩn,
hạ thế giá lá cờ vàng ba sọc đỏ. Chúng ta mất gần hết, chỉ c̣n
lại mầu cờ. Và chúng ta không chấp nhận những phản bội của bất
cứ ai,bất cứ từ đâu tới. Những đoản văn này được
viết nhân chuyện mầu cờ bị lăng nhục ở Nam California.
Lịch sử sẽ không tha thứ cho những ai bôi đen lịch sử bằng cách
hạ nhục lá cờ vàng!
Hải Triều Nhóm Nhà Văn Quân Đội 604
879 1179
Giao Chỉ – San Jose Đại Tướng Của
Tôi (Mon General)
Bài viết của chúng tôi về đại tướng Cao văn Viên
gồm có ba phần, ghi nhận vào ba thời gian khác nhau. Năm 2003, năm 2005 và năm 2008.
Mon General: (Tháng 10-2003)
Mùa Đông năm nay, niên trưởng Cao Văn Viên sẽ trải qua
những ngày băng giá khó khăn. Năm nay 82 tuổi, ông mới bị té ngă. Tưởng
đă quỵ luôn, nhưng một lần nữa y khoa Hoa Kỳ đă đỡ vị Tổng
Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH đứng lên để tập cho ông đi
lại từng bước ngắn. Chắc chắn là các bác sĩ và chuyên viên Mỹ đều
không biết vị cao niên Á Châu này là người đă từng làm chức vụ ǵ ở Việt
Nam. Bởi v́ hàng ngày cũng không có nhiều người đến thăm ông. Sau trận té
gẫy xương chậu, chân ông đă sưng thật to, nhưng măi cả mấy tuần
lễ sau ông mới có cơ hội chiếu điện và chữa trị chính thức. Trước
đó ông tự soa lấy bằng dầu
nóng và mùi Nhị Thiên Đường thơm ngát cả căn pḥng tại khu chung cư cao niên lầu
hai của quận Fairfax miền Virginia. Ông đang cố gắng đứng lên tập đi
trở lại trong một chương tŕnh hồi phục để tránh phải ngồi
xe lăn là điều mà tuổi già rất quản ngại.
30 năm trong quân ngũ, ông Cao Văn Viên chỉ sống với cấp trên và cấp
dưới. Riêng cá nhân ông, gần như không có nhiều bằng hữu tương giao để
chén tạc, chén thù. Gần 30 năm sống cuộc đời di tản, vị Đại Tướng
đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bây giờ
cũng vẫn tiếp tục độc hành. Ông luôn luôn cố tránh liên hệ vào các tranh chấp
chính trị ngay từ lúc c̣n trong quân đội cũng như trong hoàn cảnh di dân tỵ nạn
hiện nay.Từ khi người vợ quán xuyến của ông qua đời, rồi đến
người con trai duy nhất của ông cũng vắn số, ông Cao văn Viên đă trải
qua những mùa đông cô độc ở Nữu Ước, hoàn toàn xa cách mọi người.
Ông đi chợ nấu ăn lấy, đóng vai ông
già Á Châu vô danh giữa chốn đô thị phồn hoa đông đảo nhất thế giới.
Những năm gần đây ông dọn về ở luôn trong một căn hộ của khu
chung cư ở miền Đông Hoa Kỳ, bên cạnh Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nơi đây
đa số là người già Đại Hàn. Ông tiếp tục đi chợ và nấu ăn lấy.
Cô con gái lớn trưởng thành của ông đă tốt nghiệp luật, đi dạy học,
lập gia đ́nh và làm việc ở nơi xa. Đời
sống đă không cho phép cha con được gần nhau và vị tướng già cũng đă
quen sống như thế.
Bây giờ thực ra ông cũng không có nhiều nhu cầu.
Người già ở Hoa Kỳ lợi tức thấp hoặc không có lợi tức được
lănh bao nhiêu th́ niên trưởng Viên của tôi cũng lănh được bằng đó. Số tiền này đă dành trả hết cho gian pḥng
ông đang cư ngụ. Trung tá Tâm là một sĩ quan hiếm hoi trong số các thân hữu quân
ngũ c̣n lại quanh ông. Vâng, chính cái anh Tâm đó
đang t́m cách
xin cho niên trưởng của anh vào một Nursing Home có người săn sóc ngày đêm. Đó là nhu cầu thực tế và là một ước
mơ nhỏ bé của một con người đă một thời mang h́nh ảnh lớn lao
của quân đội chúng ta. Vào đầu thập niên 50, gặp nhau tại tiểu khu Hưng
Yên, bên bờ sông Hồng Hà có 3 sĩ quan Việt Nam c̣n trẻ. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu,
quê Phan Rang miền Trung, lém lỉnh tinh ranh. Đại úy Trần Thiện Khiêm quê miền Nam, ít
nói, thâm trầm. Trung úy Cao Văn Viên, quê miền Bắc, cao lớn, trắng trẻo và đẹp
trai nhất. Nếu coi đây là nhóm bạn đầu đời quân ngũ th́ quả thực
họ đă từng là chiến hữu. Và Trung úy Cao văn Viên lại là niên trưởng.
Ông Viên tuy người Bắc nhưng thực ra v́ cha mẹ làm ăn bên Lào nên ông ra
đời tại Vạn Tượng và Thủ Đô Vientian là dấu ấn của thân phụ
đặt tên cho con trai. Vào thời c̣n trẻ trung, các sĩ quan quốc gia bắt đầu
trưởng thành trong ṿng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp. Các ông quan một, quan hai
c̣n đeo trên vai những gạch kim tuyến vàng chóe với tương lai mở rộng một
đời binh nghiệp. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng Trung úy Thiệu sẽ trở
thành Tổng Thống. Đại úy Khiêm trở thành Thủ Tướng và Trung úy Viên trở thành
Đại Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là chuyện sau này. Định mệnh
quả nhiên đă có những ước hẹn với lịch sử. Cả ba người
chiến binh Bắc Trung Nam, cùng thăng trầm với chiến tranh, với đất nước
để cùng thăng tiến. Họ làm việc với nhau, họ chia nhau những chức
vụ tối cao của quân đội và chính quyền. Cùng yểm trợ nhau, nhưng đồng
thời cũng rất xa cách dù ở bên trong hay bên ngoài công vụ. Họ không c̣n ngồi với
nhau những giây phút tửu hậu trà dư. Ông Viên đă nói rằng mối liên hệ của
ông với Tổng Thống Thiệu hoàn toàn là công vụ. Các niên trưởng của tôi khi
nói chuyện đều thưa gửi với nhau bằng chức vụ. Thưa Tổng Thống,
Thủ Tướng, Đại Tướng .vân vân. Khách sáo vô cùng. Cái thời “toa moa” ngày
xưa ở Secteur Hưng Yên bây giờ đă xa lắm rồi, chẳng ai c̣n nhớ nữa.
Với sĩ quan Cao Văn Viên, từ cấp Úy lên cấp Tá, ông luôn luôn là người
cần mẫn và ḥa nhă. Bước ngoặt của đời ông là cánh chim bằng nhảy
dù trên ngực áo. Khi ông c̣n là Trung Tá tại Tham Mưu Biệt Bộ lúc đó ông Nguyễn Chánh Thi đang coi Liên đoàn Nhảy dù. Cả hai cùng
là bạn cũ. Thi rủ Viên học nhảy dù để gột rửa bớt cái vẻ sĩ
quan văn pḥng. Nhảy th́ nhảy. Trung tá Viên lấy bằng Dù và tiếp tục ngồi bên
Tham Mưu Biệt Bộ thời kỳ ông Diệm c̣n đang tại chức. Đảo chính xẩy
ra, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Dù chạy qua Cam Bốt. Tổng thống Diệm
vừa thoát nạn, ngó tới ngó lui thấy ông sĩ quan thân cận gần gũi có bằng
cấp nhẩy dù bèn đưa qua nắm liên đoàn Mũ Đỏ. Từ đó ông Cao Văn Viên bắt đầu làm tư lệnh và cuộc đời
đi vào khúc quanh mới. Nhảy dù vốn là đơn vị ưu tú của quân đội,
nhưng mũ đỏ đang bị thất sủng v́ cú đảo chánh hụt. Giai đoạn
này là lúc thử thách của cả vị tư lệnh lẫn các tiểu đoàn nhảy dù.
Hai bên thăm ḍ lẫn nhau. Ông Viên trở thành một vị Đại Tá tư lệnh hăng
hái xông xáo từ kỹ thuật nhảy dù đến các chiến trường trên khắp
bốn quân khu. Ông lấy bằng huấn luyện viên Dù và nhảy biểu diễn tự điều
khiển cùng với các cố vấn Hoa Kỳ.
Cuộc đảo chánh ông Diệm lần
thứ hai mới là giai đoạn đặc biệt của Đại tá Cao Văn Viên. Trong
khi hầu hết các tư lệnh quân đội đều ngả theo cách mạng th́ riêng
ḿnh ông từ chối. Đó là hành động mà sau này ông cũng không chắc là một thái độ
khôn ngoan. Ông Viên thực sự cũng không muốn đóng vai anh hùng, nhưng chỉ muốn giữ tấm ḷng chung thủy. Đă có những người
chống đảo chánh bị giết chết như vị Tư lệnh Hải quân, Tiểu
đoàn trưởng Nhảy dù và sau này chính anh em Tổng thống Diệm cũng bị giết
chết. Nếu viên Tư lệnh Nhảy dù không chịu theo cách mạng mà bị thanh toán th́
cũng là chuyện có thể xảy ra. Nhưng chính bà vợ quán xuyến và can đảm đă
lên tiếng khi ông chồng bị giam riêng một chỗ. Bà Viên đă quyết liệt can thiệp
trực tiếp với tất cả các tướng lănh đảo chánh mà ngày hôm trước
vẫn c̣n là anh em thân hữu với gia đ́nh ông.
Cho đến sau này ông Viên vẫn c̣n ghi nhớ thái độ mạnh mẽ của người
vợ đă cứu sống ông trong năm đảo chánh. Ông cũng không ngần ngại mà
nói thẳng ra như thế. Sau khi cách mạng thành công, ngôi sao bản mệnh của ông lại
trở nên rực rỡ. Phe thân hữu của Đệ Nhất Cộng Ḥa tuy đang bị thất
thế nhưng vẫn kín đáo ca ngợi thái độ
của vị Tư lệnh Nhảy dù. Ngay cả các tướng lănh và sĩ quan phe cách mạng
cũng đều v́ nể thái độ của ông. Ông Cao Văn Viên gần như là người
duy nhất không theo cách mạng nhưng vẫn được tiếp tục về chỉ
huy nhảy dù.
Định mệnh vẫn tiếp tục chiều đăi. Ông tham dự hành quân Cao Lănh
miền Tây đạt chiến thắng và bị thương. Thêm vào chiến thương
bội tinh với ngôi sao đỏ, ông lên Thiếu Tướng với hai sao lấp lánh trên
cổ áo và nón đỏ vẫn đội trên đầu.Trong thời gian đảo chánh ông
Diệm xảy ra, ông Cao Văn Viên đă không có những kỷ niệm tốt đẹp với
tướng Dương Văn Minh. Mấy năm sau, vào giai đoạn chỉnh lư bắt
các tướng cách mạng giam lỏng trên Đà Lạt và cô lập Big Minh th́ cũng toàn là lính
Nhảy dù của ông Cao Văn Viên. V́ vậy lại thêm một kỷ niệm không đẹp
giữa hai người. Đó cũng là lư do mà sau này ông nghĩ rằng không thể ngồi lại
trong chính phủ Dương Văn Minh. Phải chăng đây cũng là một cái cớ chính
thức để có thể ra đi vào đúng thời
điểm cần thiết. Tuy nhiên, đó là câu
chuyện 75. Trở lại với giai đoạn giữa thập niên 60, từ giă nhảy
dù, tướng Viên về làm Tư lệnh Quân đoàn III và sau cùng lên chức Tổng Tham Mưu
Trưởng. Với chức vụ quan trọng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, tướng Viên là người có vóc dáng đường bệ nên trong các cuộc thăm
viếng đơn vị, h́nh ảnh của ông cạnh các tướng lănh Hoa Kỳ đem
lại niềm hănh diện cho các binh đoàn.
Lớn tuổi hơn các tướng lănh
cùng thời, nhưng ông có khuôn mặt trẻ trung và giữ được thân thể gọn
gàng của một cựu huấn luyện viên thể dục lúc c̣n niên thiếu. Và mặc
dù có dư luận chê trách, nhưng tướng Viên vẫn thực sự là người hiếu
học ngay từ lúc c̣n làm Tư lệnh Quân đoàn III. Ông rất chịu những bài giảng
về triết học bay bướm của thầy Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên
Sa đă một thời là Trung úy Quân nhu. Phần lớn các tư lệnh quân chủng và các
quân đoàn đều kính nể vị Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng
vốn từ bên Nhảy Dù đi lên. Ngay cả sau này khi các Tư lệnh Quân đoàn liên lạc
thẳng với Tổng thống Thiệu những vẫn giữ lễ độ lịch
sự với Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Viên có biệt nhăn với ngành Tiếp
Vận v́ ngày xưa ông đă từng là trưởng pḥng 4 đầu tiên dưới thời
quân đội quốc gia phôi thai năm 1954. Mặt khác, ông cũng giữ mối thiện
cảm và theo dơi các hoạt động của binh chủng mũ đỏ mà ông luôn luôn hănh
diện đă góp phần trong binh nghiệp. Tướng Viên cũng được sự tin
cậy và vị nể của các giới chức Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính ông cũng tự nhận
thấy chưa bao giờ nghĩ đến ngày có thể lên đến chức tước
lớn lao như vậy. Ông luôn luôn mong được làm tṛn nhiệm vụ, nhưng ông không
phải là hàng tướng lănh nóng nẩy ồn ào, lấy gậy chỉ huy đập vào
đầu sĩ quan, hay la hét thuộc cấp tối ngày. Tướng Viên cảm nhận vai
tṛ phối hợp của một vị Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân như bên Ngũ
Giác Đài Hoa Kỳ chứ không phải là Tổng Tư Lệnh ban hành các lệnh trực tiếp.
Như ông đă giăi bày trong tác phẩm mới xuất bản, khi nhận thấy bị Tổng
thống Thiệu qua mặt dành trực tiếp quyền điều hành bộ máy chiến
tranh th́ ông lặng lẽ lui vào vai tṛ tư vấn cho đến khi xin từ nhiệm.
Tháng 10-2003 khi dịch giả Nguyễn kỳ Phong cho phát hành bản Việt ngữ
tác phẩm của Đại tướng Cao Văn Viên, phóng viên BBC Luân Đôn có hỏi đi hỏi
lại Kỳ Phong nhiều lần một câu hỏi. Đó cũng là thắc mắc của rất
nhiều thính giả và độc giả. Tại sao Đại Tướng bị thất sủng,
xin từ nhiệm lại không được chấp thuận. Dịch giả Kỳ Phong
không thể thay mặt tác giả mà trả lời cho suôi câu hỏi phức tạp này. Quả
thực đă có lúc ông Thiệu muốn t́m người thay ông Viên nhưng không phải là dễ
dàng. Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng phải lựa chọn trong các Tư lệnh
Quân đoàn xuất sắc. Tướng Ngô Quang Trưởng với sự yểm trợ của
phía Hoa Kỳ cũng không phải là người làm ông Thiệu an tâm. Tướng Đỗ Cao
Trí cũng đă được phía Hoa kỳ tiến cử trong danh sách nhưng ông Trí vừa
nghe tin đă tuyên bố lăng nhăng nên đă làm ông Thiệu quản ngại và gạch tên
ngay cả trước khi trực thăng của ông Trí lâm nạn. Đối với Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, việc thay thế tướng Cao Văn Viên chưa phải là nhu
cầu cấp thiết. Ông Thiệu hoàn toàn yên tâm với một vị Tổng Tham Mưu Trưởng
dứt khoát không chịu tham dự vào các cuộc đảo chánh chính trị. Ông không sợ
ông Viên làm phản. Trước sau như một tướng Viên đă kiên định như
thế.
Thông thường ông Viên thân với tướng Kỳ hơn là gần gũi
ông Thiệu. Nhưng không bao giờ ông Kỳ rủ được ông Viên tham gia đảo
chánh ông Thiệu, ngay như vào giờ thứ 25 của thời điểm năm 75. Ông Thiệu
và ông Viên, như trên đă viết ra, các niên trưởng của tôi sinh hoạt xa cách và khách
sáo. Không có cái kiểu như thời kỳ c̣n ở Hưng Yên: “Này, Moi làm ở État Major
lâu quá, thôi Toi kiếm thằng khác để Moi nghỉ một thời gian. Việc ǵ Toi
cũng chơi thẳng với các Quân đoàn như thế th́ c̣n cần Moi ở đây làm
ǵ?”
Không, các Xếp của tôi không ăn nói lăng nhăng như vậy. Đại
Tướng thưa rằng xin Tổng Thống cho tôi tạm nghỉ v́ sức khỏe. Tổng
Thống nói là xin Đại Tướng vui ḷng tiếp tục ở lại một thời gian.
Bây giờ là lúc khó khăn, quân đội cần ổn định v.v... Và Đại tướng
Viên có lúc đă nhờ quân nhu t́m cho một số dụng cụ làm vườn để thực
sự chuẩn bị vui thú điền viên, nhưng khi ông Thiệu nói như vậy đành chần chờ ở lại Bộ Tổng Tham Mưu
cho qua ngày. Cũng phải ghi lại là trong chức vụ cao cấp nhất của quân đội,
tướng Viên đă có lần phác thảo kế hoạch tấn công ra Bắc và đó là một trong các phương cách tự vệ mănh liệt
nhất. Tuy nhiên chắc chắn rằng phía Hoa Kỳ hoàn toàn không yểm trợ và ông Thiệu
không thể nào đơn phương quyết định được. Thêm vào đó, một trong các quyết định quan trọng nhất
của tướng Cao Văn Viên là xử dụng tướng Đồng Văn Khuyên từ Chỉ
Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận lên Tổng Cục Trưởng, Tổng
Cục Tiếp Vận rồi là Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Ông Khuyên đă không phụ
ḷng tin cậy của tướng Viên trong các chức vụ này và đặc biệt ông cũng
được Hoa Kỳ hoàn toàn yểm trợ. Và chính guồng máy Tiếp Vận với viện
trợ Mỹ là con bài tẩy của chiến tranh Việt Nam.
Trong phần ghi chú của tác giả Cao Văn Viên viết trong tác phẩm Việt
ngữ mới phát hành, một đề nghị chiến lược tối mật quan trọng
nhất cho chiến tranh Việt Nam là việc bỏ đất, triệt thoái do Tổng Cục
Tiếp Vận, Tổng Tham Mưu soạn thảo. Hoàn toàn dựa vào bài toán quân viện, nghiên
cứu khả năng thực sự giữ đất, giữ dân, Việt Nam Cộng Ḥa muốn
tồn tại th́ phải thu về các vùng đồng bằng và duyên hải. Kế hoạch
phải áp dụng ngay từ sau Hiệp Định Paris chứ không thể căng mỏng quân
lực ra khắp nơi theo kiểu dành dân lấn đất và chôn chân các đơn vị
Tổng Trừ Bị tại các tiền đồn. Đại tướng Viên đă chỉ thị
tướng Đồng Văn Khuyên lên tŕnh riêng Tổng Thống để rồi không hề
nghe được bất cứ một chỉ dấu ǵ của ông Thiệu cho đến
những ngày đau thương 30 tháng 4-1975.
Chuyến đi thăm: (Tháng 4-2005)
Ba mươi năm trôi qua như một giấc mộng
dài. Tháng tư năm 2005 từ San Jose CA, chúng tôi lên thủ đô tổ chức họp mặt
anh em chiến hữu trại Trần Hưng Đạo. Đây chính là tổng hành dinh của bộ
Tổng tham Mưu ngày xưa. Ba mươi năm hội ngộ, gặp lại lần đầu
nhưng ai cũng biết đây là lần cuối. Đại tướng lấy lư do già yếu
nên không đến được. Hội họp xong, tôi nhờ trung tá Tâm đưa đến
thăm ông. Tháng tư là tháng không vui mà cảnh trí nơi ông ở trông thật là buồn. Tâm
nói rằng, đại tướng rất đúng hẹn
và rất nguyên tắc. Khi chúng tôi bước vào pḥng khách của khu cao niên Á châu, “Mon General”
đă đứng chờ sẵn, quần áo chỉnh tề. H́nh ảnh của vị tướng
lănh cao lớn mang 4 sao, áo hoa dù, mũ đỏ không c̣n nữa. Đại tướng của
tôi bây giờ là một cụ già tóc bạc lưng c̣ng, vóc dáng nhỏ bé, chỉ c̣n lại cặp
mắt long lanh, và tiếng nói dịu dàng. Chúng tôi ngồi xuống bên nhau nói chuyện không có
chủ đề. Trung tá Tâm ngồi một bên luôn luôn để ư săn sóc cho ông cụ. Bao
nhiêu câu hỏi cần t́m hiểu vị niên trưởng mà tôi đă chuẩn bị bây giờ
buông suôi hết. Nào là rút quân, nào là tử thủ, từ chuyện ông Thiệu đến chuyện
ông Kỳ, chuyện Mỹ, chuyện Tàu. Trong cái buổi chiều buồn và ảm đạm
đó, tôi chợt thấy tất cả đều
trở nên vô nghĩa. Toàn quân, toàn dân, cấp trên cấp dưới, bây giờ không quá khứ,
chẳng vị lai. Lời người xưa c̣n vẳng bên tai. Bại binh chi tướng,
bất khả ngôn dũng. Tướng lănh thua trận, không thể nói mạnh.
Bây
giờ là tháng tư, 30 năm sau ngồi đây mà đổ tội cho ai. Nhất tướng
công thành, vạn cốt khô. Mà công thành, có thành công cho cam. Tôi không hỏi và ông cũng chẳng
nói. Tôi đưa cả hai tay cho ông nắm thật chặt. H́nh như có một lời ca từ
50 năm trước trong bài T́nh Lính: Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay; Ông nắm thật
chặt và Ông bắt đầu giảng cho tôi về Thiền Tông và Phật Pháp. Chẳng có
thu thanh, thu h́nh phỏng vấn ǵ cả. Hai mươi năm chinh chiến điêu linh và ba
mươi năm lưu lạc tù đầy của cả đạo quân nay bỏ qua một
bên để ngồi bàn về đường đi của Phật. Trước khi chia tay,
tôi ngỏ lời xin đại tướng một di vật cho viện Bảo tàng. Ông nói:
Tôi có c̣n ǵ đâu. Bèn hỏi rằng hôm niên trưởng ra đi đem theo cái ǵ. Ông cho biết
có cầm cái cặp. Bên trong có cuốn sách viết về đạo Phật. Tôi xin ông cuốn
sách đó, có bút tự ghi dấu của đại
tướng. Quay sang anh Tâm, tôi xin xác nhận, khi nào... Chúng tôi ra xe, ông cụ đứÔng ngó
theo... Giữa những người lính trẻ
ngày xưa, cuộc ra đi nào cũng có thể là lần cuối. Bây giờ chúng tôi là những
người lính già, chắc chắn phải hẹn nhau gặp lại ở nơi khác.
Lần cuối. (Tháng
Giêng 2008)
Giây phút .. khi nào.. đă đến. Đại
tướng Cao văn Viên ra đi ngày 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, VA. cũng không xa nơi
ông cư ngụ những ngày sau cùng. Gia đ́nh tuy đơn
chiếc nhưng chiến hữu rất đông đảo.
Những vị niên trưởng lừng lẫy của tôi, quư vị do thời thế
tạo nên. Lúc c̣n trẻ tôi có thể đă kỳ vọng và trách cứ quư vị rất nhiều,
nhưng bây giờ cấp dưới chúng tôi cũng già rồi, tôi đă suy nghĩ khác đi
nhiều. Quả thực chúng ta không thay đổi được định mệnh và không
vượt qua được thời thế. Tôi cũng đă từng là anh Thiếu Úy trẻ
Bắc kỳ của mùa thu 54, bây giờ cũng đă cao niên như mọi người. Tôi
bao dung với chính tấm thân già của ḿnh. Nh́n cuộc đời nhẹ nhàng hơn và tôi
thông cảm với niên trưởng Cao Văn Viên.
Tôi vẫn h́nh dung những buổi
chào cờ đầu năm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lá cờ sao của Đại Tướng
Tổng Tư Lệnh bay trên nhà lầu chính. Tướng Cao Văn Viên đội mũ đỏ,
áo hoa dù đứng giữa hàng quân để đọc nhật lệnh tại Vũ Đ́nh Trường
Tổng Tham Mưu mênh mông. Hàng chục ông tướng xếp hàng ngang. Trên 50 cấp Đại
Tá xếp hàng dọc. Các sĩ quan, HSQ và binh sĩ của các pḥng sở với đủ mọi
loại quân phục Liên Quân. Bên trái là đoàn xe với quân cảnh hộ tống thật uy
nghi lẫm liệt. Phía xa là trực thăng riêng đậu chờ sẵn.
Cách đó thật xa hơn nữa về cả
không gian lẫn thời gian là h́nh ảnh Trung úy Cao Văn Viên trẻ trung của Secteur Hưng
Yên trên chiến trường Bắc Việt. Rồi đến những ngày qua khi niên trưởng
Cao Văn Viên sống một ḿnh từ Nữu Ước đến DC. Ông chậm chạp
đi bộ từ chợ về nhà, leo lên lầu hai của căn pḥng nhỏ, tự ḿnh
chuẩn bị bữa ăn. Sáng nay ông ăn món ǵ? Bánh ḿ trứng hay trứng bánh ḿ? Ông có uống
sữa hay không? Ông c̣n nhớ ǵ đến chuyện di tản ở miền Bắc 54. Chuyện
di tản ở miền Nam 75. Trung úy Thiệu ngày xưa nay đă đi xa rồi, Đại úy
Khiêm ngày xưa vẫn im ĺm như thuở nào. Và Trung úy Viên ngày xưa măi măi vẫn cô đơn.
Tuổi trẻ và danh vọng rồi cũng qua đi. Ai rồi cũng chỉ c̣n lại một
ḿnh. Khi ra đi lần cuối cũng chỉ có một ḿnh. Tất cả quư niên trưởng
và chúng tôi ai cũng muốn sống lại cái thời đeo lon cấp Úy của tuổi hoa
niên. Phải mà được làm lại từ đầu th́ chúng ta sẽ làm biết bao nhiêu
điều tử tế hơn, đẹp đẽ hơn, cho bản thân, cho chiến hữu
và cho đất nước.
“Tuổi hoa niên cùng mặc áo chinh y. Ḷng mở rộng giữa
ḍng đời ấm áp. Tám mươi năm, kiếp người như gió thoảng. Chiều
cô đơn về chậm hồn cao niên.”
Giao Chỉ
– San Jose Mùa Đông 2008
V́ Sao Tôi
Bỏ Quân Đoàn I ?
TƯỚNG NGÔ
QUANG TRƯỞNG
Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được
lệnh vào Sài G̣n họp, tôi vào tới Sài G̣n nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có ḿnh tôi vào gặp Tổng thống và Thủ tướng (Trần
Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ khi được lệnh
về Sài G̣n họp th́ đều có đầy đủ mặt các vị Tư lệnh Quân
đoàn và Tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần nầy th́ chỉ có một ḿnh tôi. Tôi
thắc mắc lo lắng.
Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ư định
của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay th́ tôi mới vỡ lẽ, cay đắng,
và uất ức v́ lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và
ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó t́nh h́nh tại Huế, Quảng Ngăi
và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề v́ địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ
sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thuỷ Quân
Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi tŕnh bày cặn
kẽ những ư kiến của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không
được chấp thuận.
Lệnh bất dịch di là: Phải rút khỏi Quân đoàn I
càng sớm càng hay. Trở ra Quân đoàn I, tôi cho triệu tập tất cả các TưlLệnh
Sư đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các Sĩ quan trong
buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ
hỏi sơ qua t́nh h́nh và nói vu vơ quanh quẩn.
Chứ làm sao tôi ra lịnh thẳng khi chỉ với một
ḿnh tôi là Tư lệnh Quân đoàn mà thôi. V́ vậy, cuộc họp hôm đó chẳng mang lại
một kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu
tôi rút khỏi Quân đoàn I vào ngày 13 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên.
lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Cái lẩm cẩm của trung ương là không cho các thuộc
cấp biết ư định của ḿnh. Nghĩa là các Tư lệnh các quân binh chủng, Tổng
Bộ trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, v.v… đă không biết ǵ về lệnh
rút quân của Quân đoàn I và II cả. Lệnh nầy chỉ có Tổng thống và Thủ
tướng, Đại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân đoàn I) và Tư lệnh
Quân đoàn II (Tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối
họp chặt chẻ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng
hoàng, lệnh đột ngột không có đủ th́ giờ
để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đ́nh
họ cũng không được bảo vệ đúng mức th́ làm sao tránh khỏi hoang mang?
Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban
Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng
ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai
bị áp lực nặng.
Tôi ra lệnh cho Tướng Trần Văn Nhựt rút Sư
đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lư Sơn (Cù Lao Ré) để
kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng đường biển
th́ sẽ khó khăn. Trong khi đó, , cảnh hỗn loạn đă xảy ra phần lớn
do dân chúng hốt hoảng từ chỗ nầy sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và chạy
cùng theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với ḷng
sắt đá và giọng nói cứng rắn hằng ngày buột anh em phải giữ không để
mất một cục sỏi ở Vùng I.
Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi
Đai tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng thống cho tôi được dùng mọi cách
để giữ Huế và Vùng I. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng I được? Làm sao tôi bỏ
được vùng đất sỏi đá nầy mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đă
đổ máu để ǵn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.
Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho
tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp Tướng Lâm Quang Thi (Tư
lệnh phó Quân đoàn) chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững.
Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận
được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh Tổng
thống yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Thật làm tôi chết lặng người.
V́ mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho Tướng Thi giữ Huế. Bây giờ
đột nhiên được lệnh bỏ th́ tôi biết nói làm sao với Tướng Thi
va anh em binh sĩ.
Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi
điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng
Thi. Tướng Thi trả lời ngay: “Ở Huế bây giờ xă ấp phường
khóm tốt quá, đâu đâu t́nh h́nh cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là
bỏ làm sao? Tôi buồn bă trả lời: “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ
Huế giùm tôi. Đó là lệnh trên, không bỏ là không được”. Kết quả là
Tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để
được tàu Hải quân rút về Đà Nẵng.
Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm
tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển
từ công việc hành chánh đến quân sự. T́nh h́nh khó khăn, địch tấn công,
mà lại thêm cái lệnh phải rút càng sớm càng tốt, lan truyền rỉ rả cho nên
binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin Thủ tướng
ra quan sát t́nh h́nh. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất
cả vị Tư lệnh Sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ
tham mưu, và các Trưởng pḥng sở của hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.
Trước khi Thủ tướng đến, tôi đă nói chuyện
với anh em có mặt tại hôm đó rằng t́nh h́nh khẩn trương, anh em phải nói
lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi nầy để Thủ
tướng biết rơ t́nh h́nh và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ
thái độ “tŕnh thưa dạ bẩm” trong lúc nầy nữa. Phải thẳng
thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi Thủ tướng nói chuyện xong, đến
phần thắc mắc th́ cũng chẳng có ai nói ǵ cả. Tôi rất buồn v́ anh em không
chịu nghe lời tôi để nói cho Thủ tướng biết những sự thật
về t́nh h́nh hiện nay. Duy chỉ có một ḿnh Đại tá Kỳ , tỉnh trưởng tỉnh
Quảng Trị, có hỏi một câu: “Thưa Thủ tướng, trong mấy ngày vừa
qua, có một số công chức đă tự ư rời bỏ nhiệm sở không đến
làm việc, thưa Thủ tướng, phải dùng biện pháp ǵ để trừng phạt
những người đó? Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả
lời và lảng sang chuyện khác. V́ Thủ tướng làm sao nói được khi lệnh
trên đă muốn giải tán Quân đoàn I và Quân khu I càng sớm càng tốt.
Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư
đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng
quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm
HQ404 đưa về Sài G̣n. Trên tàu cũng có một Lữ đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến.
Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm
lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm
Đà Nẵng? Lính tráng đă phân tán mỗi ngườI một nơi. Cấp chỉ huy th́ mạnh
ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được?
Sau đó tôi được lệnh cho Hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thuỷ
Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một ḿnh tôi về Sài G̣n. Tôi không chịu
mặc dù lúc đó tàu đă cập bến Cam Ranh rồi.
Tôi nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ Tổng tham
mưu xin cho anh em Thuỷ Quân Lục Chiến được về Sài G̣n tĩnh dưỡng
nghỉ ngơi cùng tôi. C̣n nếu không th́ tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thuỷ
Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài G̣n bằng ḷng cho tàu chở
tất cả về Sài G̣n.
Về đến Sài G̣n tôi đưọc bổ nhiệm vào
Bộ Tư lệnh Hành quân lưu động ở Bộ Tổng tham mưu. Khi vào đây,
tôi gặp Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải quân Vùng I
Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung tướng
Thi th́ bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu v́ sao lại có
chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội ǵ. Họ chỉ thi hành theo đúng
lệnh mà lại bị phạt th́ quả thật bất công.
Tướng Thi thực sự là người chống lại
việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng thống đă ra lệnh
bỏ Huế th́ Tướng Thi đă trả lời thẳng với tôi rằng: “Xă
ấp tốt quá mà bỏ làm sao?” Vậy mà bây giờ
ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng nầy bị phạt
quá oan uổng v́ họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông Tướng
phè phỡn tại Sài G̣n.
Hôm sau, trong buổi họp tại Bộ Tổng tham mưu, tôi
có nói rằng: “Việc phạt Tướng Thi và hai Tướng Thoại và Khánh là không
đúng. Họ chỉ là thuộc cấp của tôi. Họ chỉ làm theo chỉ thị của
tôi mà thôi. Họ không có tội ǵ cả. Nếu có phạt th́ xin hăy phạt tôi đây này.”
Pḥng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nh́n
qua Trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm
nhận chức Tổng trưởng Quốc pḥng. Có thể v́ vậy mà Tướng Đôn mới
không biết là Tổng thống Thiệu đă trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế,
nên Tướng Đôn làm đề nghị phạt Tướng Thi v́ đă bỏ Huế mà rút
lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với Tướng Đôn, và
chỉ kư lệnh phạt. Sau đó, Tướng Lê Nguyên Khang, với giọng giận giữ
đă buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội t́nh mẹ ǵ cả!”.
Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra
đi của Tướng Thoại và Tướng Khánh. Là vị Tư lệnh trong tay có đến
hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi
hỗn loạn, Tướng Thoại đă bị bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ
Tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đă phải đi bộ qua dăy núi phía sau bờ biển. May
nhờ có một chiếc tàu nhỏ của hải quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng c̣n giữ
kỹ luật, thấy Đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở Tướng
Thoại đi chứ nếu không lại cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. C̣n Tướng
Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân đă không đủ nhiên liệu để bay xa
mà phải đáp trực thăng tại một băi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu.
Cũng may lúc đó gặp tàu HQ404 và đă cùng tôi về Sài G̣n.
NGÔ QUANG TRƯỞNG
( bản nguyên tác của người viết)
Nhất sinh dũng lược
vị danh tướng
Thiên cổ đan tâm thác hậu
nhân
Subject: |
Tản mạn về các danh tướng Ngô Quang Trưởng và
Nguyễn Khoa Nam với KQ |
|
Author: |
Cali |
|
Tản mạn
về các danh tướng Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam với… Không Quân.
Trong bài « Một ngày khó quên » Sau khi ����bị ông Trưởng
giao cho cái phi vụ teo bougie là bay vào Kâm Pông Trạch. lúc đứng ở bên phi đạo,ngoài
những lời dặn ḍ như đă kể trong truyện, ông c̣n nói thêm một điều
mà lúc viết tôi không dám nói ra v́ sợ đụng chạm. Bây giờ nghĩ lại th́ nay ông
đă là một ánh sao băng rồi nên có nói ra chắc cũng không ai phiền hà ǵ ... Ông Trưởng
vừa châm thuốc hút vừa từ từ đi ra xa khỏi mấy vị sĩ quan cấp
đại tá đứng xung quanh và ra dấu cho tôi đi theo.. Ông hởi tôi có hút thuốc không
? tôi nói dạ cũng hút lai rai. Ông ch́a cho tôi một điếu rồi bật lửa cho tôi,
vừa hút ông vừa nói với tôi là trong chổ BĐQ và Thiết kỵ bị vây có nhiều
sĩ quan cấp tá . Tôi cho quyền em từ chối không chở bất cứ một ông mai
bạc nào ra hết, chỉ bốc phi hành đoàn trực thăng bị bắn rớt mà thôi.
Rồi ông chúc tôi may mắn... Tôi biết ông không c̣n ǵ dặn nữa nên chào ông để về
tàu ḿnh chuẩn bị cho phi vụ sắp tới... Tôi nghĩ ông Trưởng v́ tế nhị
nên không muốn nói cái quyết định cần phải làm của ông trước mặt
mấy vị đại tá khác cho nên ông chỉ nói riêng với tôi thôi.Trong căn cứ bị
VC vây tứ phía đó có ít nhất là một đại tá Thiết Giáp chiến đoàn trưởng,
một đại tá BĐQ liên đoàn trưởng liên đoàn 7, một trung tá thiết đoàn
trưởng thiết đoàn 12… Nếu tôi chở mấy vị này ra th́ căn cứ
tan hàng cố gắng là …cái chắc ! Để mấy ông ở trỏng th́ dù VC đêm
đêm đứng ngoài bắt loa kêu gào « hàng sống chống chết » khan cả cổ họng,
binh sĩ ta vẫn c̣n tinh thần mà cầm súng. Mà thật vậy, sau này căn cứ được
giải tỏa và tổn thất được coi là tương đối nhẹ so với
địch…
Hồi c̣n bay ngoài Vùng 1, Đáp xuống ở căn cứ của một
trung đoàn BB, dưới trời mưa nhẹ, chúng tôi ai ngồi tàu nấy hút thuốc tán
dóc chờ phi vụ. Một người lính bận áo mưa poncho trùm từ đầu đến
chân lầm lũi đi ngang qua. Từ trên tàu kia, anh trung sĩ cơ phi nhảy vội xuống
phóng theo kêu giật giọng : -« ê già có hộp quẹt cho mồi tí đi già » . Người
lính đứng lại bật cái zippo cho anh trung sĩ KQ mồi thuốc. Dưới áo mưa,
hắn nhận ra ông lính có lửa là tướng ba sao Ngô Quang Trưởng, hắn đứng
cứng người chào miệng li nhí xin lỗi…rồi anh trung sĩ cũng được
ông tướng mồi cho, xong ông đi thẳng đến chiếc trực thăng Mỹ
đang chờ. Phi hành đoàn Mỹ thấy ông tướng tới vội nhảy xuống
đứng nghiêm chào. Một phút sau ông đại tá cố vấn MỸ lúp xúp chạy theo
lên tàu… Đại tướng Norman schwarzkopf tư lệnh chiến trường Gulf War
đánh Irag thời Bush cha có viết sách về cuộc đời binh nghiệp của ông và
thường tỏ ra rất kính trọng tướng Trưởng từ hồi ông c̣n là
cố vấn trưởng của tiểu đoàn ( hay sư đoàn ?) Nhảy dù VN.
Lúc
làm tư lệnh Quân đoàn 1, ông Trưởng xử dụng máy bay trực thăng Mỹ
làm phương tiện di chuyền. Thường th́ ông bay đến trời gần tối
mới về. Có nhiều buổi chiều, tôi thấy ông đáp ở các đồn bót hay
căn cứ để thị sát và kiểm tra khiến các ông BB teo lắm c̣n phi hành đoàn
Mỹ th́ complain v́ bay phờ râu… Một hôm tôi đáp gần chiếc chở tướng
Trưởng, tắt máy rồi tà tà qua tán dóc với phi hành đoàn Mẽo. Master sergeant cơ
phi người Mỹ gốc Da Đỏ cằn nhằn là ông Trưỏng về trể
quá làm hắn đói bụng ! Đại úy TPC x́ nẹt liền -« you có đói th́ lấy C-ration
(đồ hộp) để dưới ghế ra mà ăn, three stars General mà c̣n ăn C-ration,
you chê hả?
Một lần đổ đại đội trinh sát ở Ba ḷng (Quảng
Trị) vào năm 1970. Hôm đó trời mưa lất phất, mây giăng đầy trên đỉnh
núi bao phủ toàn vùng được chọn để đổ trinh sát. Sáu chiếc UH1 của
Mỹ do một thiếu tá chỉ huy chở đầy trinh sát ngồi tḥ chân ra ngoài cất
cánh trước, sáu chiếc UH1 của VNAF do một đại uư hướng dẫn cũng
chở đấy trinh sát sẽ cất cánh sau khi Mỹ đổ xong trở về v́ sợ
trời xấu có thể đụng nhau. Chừng 30 phút sau đoàn trực thăng Mỹ trở
về với trinh sát c̣n ngồi trên tàu v́ họ không đổ được.Tướng
Trưởng hỏi đại úy leader VNAF liệu có thể đổ được không?
Đại úy trưởng toán nói sẽ cố gắng, thế là đến lượt chúng
tôi quay máy, cất cánh dưới trời mưa trước sự ngạc nhiên và nghi ngờ
cuả Mỹ. Chúng tôi bay đội h́nh hàng dọc và chiếc sau theo chiếc trước
t́m lỗ mây chui xuống, đổ xong lên trên mây chờ...sau đó cả sáu chiếc dẫn
nhau về đáp tàu trống. Việc này đă làm tướng Trưởng khoái chí khen ngợi
VNAF làm đại tá cố vấn Mỹ hơi quê, chắc ông sẽ cằn nhằn viên thiếu
tá trưởng toán trực thăng Mỹ sau đó.
Sau 1975…Được ông chú ở
Washington DC mời dự đám cưới. Trong tiệc cưới, tôi thấy đủ
các tai to mặt lớn, các cựu bộ trưởng và các tướng lănh cũ . Có bà Thiệu
bà Khiêm mặc áo dài màu vàng (hai ông T, K không dự). Mấy ông tướng Đôn, Đính và vài
tuớng khác túm tụm nói chuyện với nhau ( bà Ngô D́nh Nhu lúc đó đă già, tóc bạc phơ
ở ngay sau nhà chú tôi th́ lại không dự có lẽ v́ sự có mặt của mấy tướng
đảo chánh, hay chú tôi không quen ? ) và mấy bà th́ nói chuyện với bà Thiệu Bà Khiêm. Tôi
đang ngồi chung bàn tụi trẻ dưới xóm nhà lá th́ thấy ông Trưởng ngồi
một ḿnh đàng xa, đăm chiêu hút thuốc không nói chuyện với ai. Thấy ổng
cô đơn, nên tôi lân la đến hỏi thăm ổng. Ban đầu ông không nhớ tôi
là ai nhưng khi nhắc đến trận đánh KâmPong trach mà ông đă ra lệnh cho tôi Kamikaze
nhào dô th́ ông mới nhớ ra tôi là thằng nào… Mặt ông lúc nào cũng có vẽ khắc
khổ… Tôi có nhắc đến tai nạn của tướng Ánh và hỏi ông có biết
không, hỏi xong tôi mới biết là ḿnh ngớ ngẩn v́ hai ông là chổ quen biết… Ông
gơ gơ cái hộp quẹt trên bàn rồi chắc lưỡi nói một ḿnh –« tự nhiên đi
câu tàu làm chi cho rớt zậy không biết nữa ! » Nói xong rồi im lặng, tiếp tục
gơ gơ cái hộp quẹt xuống bàn. Sau khi trao đổi vài câu lấy lệ và v́ có người
khác xề tới hỏi han nên tôi chào ông rồi chẩu lẹ về lại xóm nhà lá của
tui nó vui hơn…
Bây giờ xin tản mạn qua tướng Nguyễn Khoa Nam. Có một
buổi sáng, tôi bay chở tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi đi Mộc Hóa, ghé xuống
Sađéc đón tướng Nguyễn Khoa Nam. Không biết ông làm ǵ ở đây mà sáng sớm
đă thấy tướng Nam đội nón sắt áo giáp, nai nịt gọn gàng đang đứng
chờ ông Nghi ở băi đáp trực thăng.Tôi đáp xuống,bụi bay mù mịt, khi bụi
tan vẫn thấy ông tướng hai sao đứng yên, nghiêm chỉnh chào ông tướng ba
sao…Kỷ luật và tư cách đă làm tôi bắt đầu kính mến vị danh tướng
này từ đó..
Buổi trưa ở Mộc Hóa, tôi được cho ăn cơm trưa
với mấy ông tướng ở câu lạc bộ BB (hoa tiêu phụ và mấy cơ phi xạ
thủ cũng được mời dùng buổi trưa ở câu lạc bộ nhưng ngồi
bàn khác). Trong lúc ăn, tôi ngồi kế tướng Nam, đại tá H tỉnh trưởng
Mộc Hoá và tướng Nghi ngồi đối diện chúng tôi. Trong bàn, v́ chỉ ḿnh tôi là
đồ tép riu nên tôi an phận ngồi nhẩn nha vừa ăn vừa nghe ông đại
tá tỉnh trưởng và tướng tư lệnh vùng 4 nói chuyện với nhau. Đại
tá H nói - « trung tướng à, kỳ này tụi X́ Thẩu trúng mùa lúa cả trăm triệu đó
trung tướng, tụi nó… »…. Câu chuyện xoay quanh chính tri và sự làm ăn của
mấy X́ Thẩu. Một lúc sau, tôi nghe ông Nghi nói với ông H –« Cũng may mà ḿnh không dính
líu đến vụ c̣i hụ Long An (vụ hàng lậu nổi tiếng của mấy ông chóp
bu có xe quân cảnh hụ c̣i hộ tống ở Long An) của mấy ổng chứ không th́
cũng mệt lắm chứ không đâu đó H ». Tôi ngạc nhiên thấy tướng Nam
lúc ăn mà vẫn đội nón sắt bận áo giáp, c̣n tôi th́ nón calô, súng cao bồi vắt
vẻo ghế bên. Tôi thấy mặt ông đỏ gay nhưng vẫn không có thái độ ǵ
khi nghe những người đối diện nói về….tiền bạc, chứ không
như tôi càng nghe nói, càng cố nh́n kỹ những vị này để không bao giờ quyên được
những bộ mặt…
Suốt buổi ăn chỉ có hai người nói chuyện
là đại tá H và tướng Nghi c̣n hai người câm là tôi và tướng Nam… Sau khi
ăn cơm xong, trong lúc chờ đại tá H và tướng Nghi trở lại. Nhân dịp
ngồi riêng uống trà đá (no beer) với tướng Nam. Tôi không nhớ là đă nói bâng
quơ với ông những chuyện ǵ, nhưng sau khi biết tôi cũng là người Huế,
mẹ tôi ḍng Tôn Nữ và bà nội tôi là ḍng Nguyễn Khoa như ông, th́ ông nói ông cũng có bà
con với bà tôi cho nên sau đó chúng tôi nói chuyện cởi mở hơn chút đỉnh... Có
một câu ông đă nói mà tôi vẫn c̣n nhớ tới ngày nay: « ḿnh có rau muống luộc, canh
cà chua ăn là may rồi hỉ, c̣n lính tráng túi ngày ăn cơm gạo sấy, vợ con hắn
th́ nheo nhóc, quá khổ mà ḿnh không biết mần răng cho hắn khá hơn, thiệt ngủ
không yên ! » Câu nói chí t́nh, ḷng thương lính, nghĩ đến lính và gia đ́nh họ của
ông thật sự làm tôi rất xúc động… Nghĩ mà tủi cho ḿnh và cho người
lính thật sự của QLVNCH ngày ngày hy sinh tánh mạng, cuộc sống th́ nghèo nàn, cơ
cực trong lúc người khác nói đến bạc triệu… Nhớ đến ông, tôi
xin dâng một nén hương ḷng cho người đă Vị Quốc Vong Thân !
Xin
các huynh / đệ trong và ngoài KQ, nếu ai có dịp tiếp xúc hay làm việc với mấy
ông tướng này hăy chia xẻ cùng anh em…
Cali
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
|
Chân Dung Ngướ Lính VNCH
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật
h́nh thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng
để bảo vệ ḿnh, lực lượng đó được gọi là quân đội.
Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của
chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt.
Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn
hai ngh́n năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ,
mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt
loạn, bảo quốc an dân, giữ ǵn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao
thăng trầm của đất nước, h́nh ảnh của người lính thay đổi
qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.
Người thanh
niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ
đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên
thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đă trở thành người lính.
Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc
nón sắt xanh đậm tṛn tṛn như nửa vầng trăng in rơ bóng trên nền trời
xanh lơ. Anh đă bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm ṃn nửa ṿng
đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập
niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những
chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đă toan tính nhuộm đỏ
quê hương, th́ từ đó, người lính đă hiện diện trong tuyến đầu
lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận
bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.
Đất nước hai mươi
năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai
mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm
ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm,
bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại
bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo bên ḿnh. Tiếng xe tăng
nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đă đem sinh mạng
của ḿnh đặt trên đường bay của đạn. Đă đem hy vọng cuộc
đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đă đem t́nh yêu và nỗi nhớ đặt
trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được
ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn
giấc b́nh yên. Hay anh đă sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với
gian nguy.
Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng
śnh lầy nước ngang tầm ngực. Anh đă đi qua những địa danh xa lạ:
Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh
truy địch ở bờ sông Thạch Hăn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang
sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền
Nam với rừng Tràm, rừng Đước, đến Đồng Tháp Mười anh đă nghe
muỗi vo ve như sáo thổi.
Anh đă đến những nơi mà anh không tưởng,
anh đi diệt địch và anh đă ngă xuống địa danh chẳng quen dấu chân
anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những
vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Đông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc,
Đồng Xoài, B́nh Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, B́nh Long, người lính đă
căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm
tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đă đem 3.8 lít
máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đă đem mỗi
một 206 lóng xương khổ nạn của ḿnh cắm trăm nẻo đường
quê hương muôn ngă, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn
tại. Để cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu
phương.
Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia
không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn
bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được
sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ
quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của
người làm nghề lính, như thể không liên quan ǵ tới họ. Và họ tự trấn
an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ măi măi bảo
vệ họ tới cùng. V́ thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm
kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của
người lính.
Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với
nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm
được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương,
anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng h́nh như anh cảm thấy ḿnh như người
Thượng về Kinh. Như vậy th́ người ta tội nghiệp người lính và
yêu người lính để thể hiện t́nh quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí
và truyền h́nh.
Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết
là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội
chính ḿnh, để thoả măn cho những kẻ trông con ḅ để vẽ con nai, và ngồi
pḥng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính
trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và
ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say,
và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu th́ phong lưu và
đỏm dáng hay trắng trẻo no tṛn. Anh mặc đồ trận mới toanh c̣n nguyên
nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái t́nh. à
người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng
lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy th́ quá mỉa
mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài
đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm
lặng ở xă hội hậu phương.
Đó là những người đàn bà b́nh dị
với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt,
đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém
đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua
nửa tháng gạo ăn. Đó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi,
lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền
đồn xa xôi với vài ổ bánh ḿ làm quà gặp mặt. Đó là những người âm thầm
và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ
ngoài trận tuyến với đối phương. Hạnh phúc của họ mong manh và
nhỏ bé, bất chợt như t́nh cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người
lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút t́nh
cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc
ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nh́n đứa con bé nhỏ chào đời
tháng trước.
Người vợ lính cũng là những người hằng đêm
thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định
hướng với lo âu trằn trọc. Đó là những người đàn bà mà sau mỗi lần
đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh
khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn
sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Để
anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đăi phủ phàng, anh
vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu
phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lănh đạo tồi, sẵn
sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để
cầu lợi an thân.
Những người dân của anh, những người anh hy sinh
để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên
để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán
rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương,
đó là những kẻ chủ trương đ̣i quyền sống, trong đó không bao gồm
quyền sống của anh.
Những kẻ để trái tim rung động tiếc
thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngă xuống
của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ng̣i
bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh
để tặng cho anh những đ̣n chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống
địch mười phương, tận ḷng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh
và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
Ngày Hoà B́nh, 28 tháng Giêng năm 1973
hiệp định Paris được kư kết Hoà B́nh thật đến trên trang giấy,
đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để
chúc mừng cho hoà b́nh của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà b́nh đến ở
Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ng̣m như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn
trong cái hoà b́nh bi thảm.
Người lính vẫn tiếp tục ngă xuống, đem xác
thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Đông sang Tây, từ
Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận
bi thương và oai hùng như người lính? Những người lính chịu uống
nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng
Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không
người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay
ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm
một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người
ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn
đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, B́nh Long. Và thủ đô,
ṿm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày.
Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp
tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất
hạnh của riêng anh.
Người lănh đạo anh c̣n mè nheo ăn vạ. Và anh, anh
phải đóng trọn vai tṛ làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lănh đạo anh t́m đường
chạy trốn th́ anh vẫn c̣n cầm súng ở tiền phương. Anh đă chống giữ,
chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không
có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn
phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lănh đạo anh tuyệt
đối được b́nh yên.
Và đồng minh của anh, người đồng
minh đă từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời
mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nh́n anh đi những bước cuối cuộc đời.
Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm
con người đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới lặng câm để
nh́n anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi ḿnh anh, v́ bởi dưới đuờng
đạn xuyên qua, xác thân anh ngă xuống th́ đau thương đă vụt đứng lên.
Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người
lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa
cầu, người lính đă mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên
đường triệt thoái. Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu
những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn
em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đă làm dù, làm khiên đỡ
đạn, cho nên thân xác anh đă căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm
cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đă chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những
bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lănh đạo
đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở ḿnh trần,
anh vẫn chưa tin đời đă đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến
tranh kết thúc? Giă từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày
buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường
dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương
rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đă khóc nhiều lần cho quê hương
chinh chiến và đă khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười,
dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đă khóc thương
cho đời lính?
Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu.
Bởi trái tim anh đă hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng
Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở
trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc?
Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đă sang
trang, và loài người đă bắt đầu đi những bước cuối cùng trên
trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn,
và môi tô trét thứ son vô t́nh. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện
văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu
mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cơi chết, chúc mừng Việt Nam có
thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà b́nh đă nở hoa trong cộng đồng thế
giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà b́nh không thật đến
ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những
người không hề biết hoà b́nh, không sống được trong hoà b́nh thật sự.
Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân
đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày nát
nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng
Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong ḷng đường phố, nhưng từ
đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước
trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.
Bởi từ khi những người
bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, th́ người dân Quốc
Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm
lẫn và hối hận hôm nay h́nh như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy th́, khi
ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở băi Tiên Sa, ta vùi thân nơi
vùng kinh tế mới hay ta ch́m dưới đáy biển Đông, không phải v́ khẩu súng rơi
trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lănh đạm
và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật
về người Cộng Sản đă đi quá tầm tưởng tượng và sự
hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm
chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh
đă để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ
thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Để cho chúng ta có một
bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để
cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không
phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính ḿnh.
Để cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không
phải vùi chôn ở những gốc ḿ. Để cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước
miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.
Nhưng
lịch sử đă sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng
Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử
của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong thời chiến thành người
tù của thời b́nh. Người lính chịu số phận bi thương của chiến
tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời b́nh. Anh người lưu
vong trong ḷng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản
Việt Nam đă bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống
đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản
đă chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng
Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng
lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ
nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ
từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể
đếm.
Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường
có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lănh đạo,
không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt
sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí
tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những ṿng khoai vớ vẩn. Đặt
hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đă trở
thành vật thụ nạn thời b́nh. Anh chết đói bên những ṿng xanh nở rộ do
chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tă. Giữa
những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết
để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh
để chứng minh được phẩm giá con người. Đôi mắt anh cao ngạo
và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp
sáng lên ư nghĩa đời người. Anh đă chiến đấu, để từ trong
cơi chết anh bước ra mà sống. Để anh trở về từ địa ngục trần
gian. Bao đồng đội bất hạnh đă ngă xuống trong rừng thẳm, cuối
cùng anh đă trở về:
Ta về cúi mái đầu sương
điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đă v́
ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Nước mắt
anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được
trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa ḷng quê hương. Anh ngỡ ngàng
như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam,
tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất
nước thanh b́nh điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm
non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung ḍng giống. Anh đi
trên đường phố xưa, đường đă đổi tên. Anh t́m bạn bè cũ,
đứa c̣n đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?
Hai mươi
năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi
anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười
bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương
điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền
bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo ḍng đời nghiệt ngă. Người
lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học tṛ giờ tan học ở chính quê hương.
Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những
tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.
Ba mươi năm vết thương
cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu
từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để
viết nên những bi hùng anh đă đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa
mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đă quá may mắn, quá vinh
dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt
Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng
b́nh thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta đă làm ǵ để
tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền
Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người
quốc gia đă sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đă để mặc anh ch́m
trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.
Chúng ta, những người quốc gia
tầm gửi, đă sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng
góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người
lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng
ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta
cảm thấy thẹn khi ta đă đôi lần hănh diện v́ ta nói tiếng Anh trôi chẩy
hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương
với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy
c̣n ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ
vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những
bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào
cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để
quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đă ngă xuống hôm nào.
Để một mai, khi quê hương không c̣n giống Cộng Sản, ta đem anh về
trở lại quê hương. Để anh được đứng lên chính nơi anh ngă xuống
như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp
nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản".
Vậy có ai đă đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một ngày nào
mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị
xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, th́ làm sao ta có thể xây dựng
được một xă hội đáng gọi là nhân bản.
Hăy vinh danh người
lính Việt Nam Cộng Hoà.
Hăy giữ ǵn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong
Thân của họ như giữ ǵn ngọn lửa thiêng trong ḷng dân tộc, th́ dân tộc
ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ
tương lai.
Nguyễn thị Thảo An
Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm
Ơn Tổ Quốc Trọn
T́nh Sinh Vi Tướng
Nghĩa Quân Dân Vẹn Tiết Tử Vi Thần
Anh hùng quân lực VNCH
Phạm Phong Dinh -
Đất
nước Việt Nam anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Những đấng tiền
nhân tiên liệt đă chiến đấu và viết nên những trang sử chống xâm lược
chói lọi nhất trong lịch sử nhân loại.
Giở lại những trang sử
chiến đấu dũng mănh và hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, nhân tưởng
niệm ngày 30-04, là ngày nước Việt Nam Cộng Ḥa thôi tồn tại, chúng tôi muốn
kể lại cho các bạn tre? Việt Nam công nghiệp chiến đấu và những giây
phút chói chang cuối cùng của những vị thần tướng làm rạng danh nước
Nam trên trường quốc tế: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn
Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu
duệ của ḍng ho. Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ
tổ từ đời này sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa
Nguyễn mở mang bờ cơi về phương Nam, mà điểm dừng là mũi Cà Mau. ược
hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở c̣n ở tuổi
học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường
nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất
say mê hội họa, âm nhạc và giỏi về nhạc lư. Sau này khi đă trở thành vị
tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV
Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân,
rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu
Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn vị chiến trường
nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp v́ chuyện ăn uống.
Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đă xong cho một bữa trưa. Nếu
ở Bộ Tư Lệnh th́ người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với
các sĩ quan, có ǵ ăn nấy. Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng
Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát
giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu
bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông th́ được, nhưng
để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối
thẳng thắn. Cuộc sống của người quá giản dị, không vợ con, không
nhu cầu vật chất xa hoa, không ǵ hết, đơn giản đến mức trở
thành huyền thoại.
Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lănh của quân
ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhă như vậy. Đại cuộc
không thành, thành mất th́ tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng
Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu
thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm vận
nước đến hồi đen tối, chiến hữu găy súng và thương phế
binh chắc chắn sẽ bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè
phố bụi đất với những vết thương c̣n lở lói và rướm máu,
đă làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Đến tối Thiếu Tướng
Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được
tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đă nổ súng tuẫn
tiết trong văn pḥng tại trại Lê Lợi. Đến nửa đêm, Thiếu Tướng
Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo,
nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người
đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về
phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan c̣n ở lại Bộ Tư Lệnh đă đứng nghiêm
chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội
Cần Thợ Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đă xuống
Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm
trên đường Lê Quang Định, quận G̣ Vấp, Sài G̣n.
Chuẩn Tướng
Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu IV đă tự sát trong văn pḥng Tư
Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Ḥa Bỉnh, Cần Thơ,
trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn
Tướng Hưng được biết đến từ khi ông c̣n là một sĩ quan chiến
đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là một
trong những con mănh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Từ chức vu. Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn
21 Bộ Binh, ông được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư
Đoàn 5 Bộ Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước
khi chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972. Định
mệnh đă chọn Chuẩn Tướng Hưng làm người tử thu? An Lộc và đánh
thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến
sử thế giới. H́nh ảnh dũng cảm và quen thuộc mà chiến sĩ tử thu?
An Lộc ngưỡng mộ người Tư Lệnh của họ, là chiến sĩ Lê
Văn Hưng đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô liu, tay xách cây M16 như
bất cứ một người lính khinh binh nào, làm việc 24/24 giờ một ngày bên chiếc
đèn vàng mù mờ ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh thần binh sĩ và tỉ mỉ
giảng giải cách sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn xe tăng địch.
Dưới
sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng Nam và Chuẩn Tướng Hưng,
Quân Đoàn IV gồm các Sư Đoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đă đem lại những ngày an
b́nh cho người dân Miền Tây. Hai vi. Tướng đă là một cặp chiến binh kiệt
xuất tạo nên bức tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái ngày
oan nghiệt 30.04.1975, hai vi. Tướng nhiều lần nhận được lời đề
nghị khẩn thiết của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đ́nh di tản
sang Hoa Kỳ, nhưng cả hai vi. Tướng đă khẳng khái từ chối. Cho đến
4 giờ chiều cùng ngày, hai vi. Thiếu Tướng c̣n cố liên lạc với các đơn
vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và phóng đồ bố trí chiến
đấu chưa. Tất cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá được
giao trọng trách chuyển lệnh đă bỏ trốn mất. Hai vi. Tướng tức uất
thở than cho vận nước. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến
tàn cuộc chiến rất xa lạ với người chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng
Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn
pḥng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ
bà Chuẩn Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người,
nói cho chúng biết về người cha đă chết như thế nào cho tổ quốc.
Người cũng trân trọng từ biệt các chiến hữu:
"Tôi không bỏ
các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc. Tôi cũng không thể chịu nhục
đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi
tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có."
Những
người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây súng thân thương vào ḷng khóc nức nở. Họ
biết giây phút vĩnh biệt người chủ tướng đă điểm. Chuẩn
Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, b́nh thản
đóng kín cửa văn pḥng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra.
Bà Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngă người
tựa vào giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn
thân run rẩy từng cơn, đôi mắt c̣n mở to uất hờn. Người đă bắn
vào tim để tỏ rơ tiết tháo một người Tướng lănh của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa. Máu từ trong tim người thấm ướt mảng áo ngực
và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng
thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975. Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam
gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng Hưng nghe rơ tiếng thở dài
của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây.
Trong cái ngày đau buồn
ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài G̣n, người ta đưa
vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu
II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh
thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đă uống thuốc độc
chết cùng với vận nước. Từ cái ngày người bị trọng thương
và sa vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về
cho Việt Nam Cộng Ḥa sau ngày kư Hiệp Định Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú
đă thề với ḷng là người thà chết chứ không chịu nhục nhă lọt vào
tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đă giữ trọn,
người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi
oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. C̣n nhớ tại trận
Điện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ c̣n có 100 tay súng mà
phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi
lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được
hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy
tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngă và một vài giờ sau
đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi
của Đại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh lao. định mệnh vẫn c̣n muốn cho
người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống
hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng 07.1954 Đại
Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Ḥa. Vị Tướng mảnh khảnh
người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy
đă nhanh chóng trở thành một trong những vi. Tướng xuất sắc nhất của
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, lần lượt đảm nhiệm những chức
vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt
Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh
Quân Đoàn II; Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng
Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm
vóc quốc gia, mà đă vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người
ta cho rằng việc thất thu? Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu
Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt
buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào t́nh trạng
bất khiển dụng v́ lư do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước khi Quân
Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau ḷng theo dơi các mũi tiến
quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết
hai phần ba lănh thô? Việt Nam Cộng Ḥa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của
ḿnh cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi
khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đă tràn ngập
khắp phố phường Sài G̣n trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu
danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rơ ư chí bất khuất
của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng
họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được
tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Một
trong những hồi ức rất đẹp và rất hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên
Vỹ c̣n để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu súng chống
chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê
Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một
bên, trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đă thủ sẵn một trái lựu đạn
trong tay để cùng chết với quân địch. Đại Tá Vỹ đích thực là
một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông về phục vụ dưới
cờ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968. Đại Tá Vỹ nổi danh là
một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu
và chỉ huy. Sau chiến thắng An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề
bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm
1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và
văn pḥng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông, cùng với
chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt
nể trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy
siêng năng và đáng kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản
tính của người bộc trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu.
Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện càn quấy, ăn chận trên xương
máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh. Chuẩn
Tướng Vỹ là một trong những vi. Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng
cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.
Người ta nh́n thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng
kiến khi phải đương đầu với những vấn đề khó khăn.
Về mặt quân sự, người có một tầm nh́n chiến lược rất bao quát
và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:
"Tôi nghi ngờ chúng nó không
đánh ḿnh ngoài này mà sẽ t́m cách len lỏi đi thẳng về Sài G̣n".
Sự phán
đoán đó về sau đă hoàn toàn đúng. Một quân đoàn Bắc Việt không giao chiến
với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà t́m cách len lỏi xuyên qua những điểm bố trí
của sư đoàn, hối hả tiến về Sài G̣n để dứt điểm Tướng
Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng
Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc
nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng
là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản
về Miền Tây tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật
lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
các cấp buông súng, ai ở đâu th́ ở đó và chờ binh đội cộng quân đến
bàn giao.
Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh
cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải
tán. Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đă mời các sĩ quan cùng ăn
một bữa cơm cuối cùng với ông. Nh́n khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u
uất của vi. Tư Lệnh, các sĩ quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết
để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ đă khéo léo giấu
hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm
trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu
và cứng ngắc như những hạt sỏi. Mọi người c̣n đang dùng cơm
th́ Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc
trailer dùng làm văn pḥng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ
đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới
mở cửa th́ thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đă
thực sự ra đi, trên tay c̣n cầm khẩu Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ
là nó c̣n nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đă bắn vào phía dưới
cằm, đạn đi trổ lên đầu. Khi các sĩ quan và binh đội cộng sản
vào tiếp quản doanh trại. sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đă
nghiêng ḿnh kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: "Đây mới xứng
đáng là con nhà Tướng."
Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị
chủ tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu
sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về
cải táng ở Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp, Sài G̣n. Năm 1987, bà cụ thân mẫu của Chuẩn
Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và
đem về thờ ở từ đường ho. Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn
Tây.
Cũng với tấm ḷng của những người mẹ thương con bao
la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần
Văn Hai tuổi già tấm lưng c̣ng c̣m cơi với thời gian, đă mưu trí gạt được
quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đem được thi thể vi. Tư Lệnh
về G̣ Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật
của con bà từ tay một vi. Trung UÙy thuộc cấp, trong đó có một vài vật dụng
cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng là
70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người
c̣n cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc c̣n sống Chuẩn Tướng
Hai nổi tiếng là vi. Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của
cải vật chất ǵ đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho,
th́ khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh
thần tướng cùng tấm ḷng sắt son đối với dân tộc và tổ quốc.
Tài
năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức
vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ
Huy Trưởng Biệt Động Quân, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm
những chức vụ cao tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc
sống b́nh dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng thấy những loại
sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vi. Tướng
thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền
hết mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đă
trở thành huyền thoại về Đại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân, đầu năm 1968 đă cùng vài sĩ quan đáp phi cơ C123 ra tận chiến trường
Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào tiền tuyến thăm
hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, dưới những
cơn mưa pháo rền trời của địch.
Năm 1974 định mệnh
đă đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để
tên tuổi của người lưu tại ngh́n thu trong sử sách, bằng cái chết hào
hùng mà đă làm địch quân kinh hoàng.
Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một
tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng
Hai di tản, mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc
phe phái của ông Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn.
Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ chối và cương quyết ở lại
sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối
cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn pḥng
Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan
và chiến binh thuộc cấp trở về với gia đ́nh, nhưng có một số vẫn
nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của họ. V́ họ
biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Đồng Tâm, hoặc nếu
có bàn giao th́ cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu
đầu hàng. Một con người đă từng chiến đấu bảo vệ đất
nước hơn hai mươi năm, không lư do ǵ người giao lại cho địch một
cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng
tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản
căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên có hai cái đế
nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị đ̣i
hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều
kiện đó, ông không muốn bàn chuyện nào khác. T́nh h́nh rất căng thẳng, hai bên giương
súng gh́m nhau. Măi lâu sau mới có một người gơ của xin vào rụt rè tự nhận
là sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ
mấy phát vào viên sĩ quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể
giết chết đối phương dễ dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương
nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch biết, rằng muốn chiếm
được nước Nam th́ họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều tối
cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đă uống thuốc độc tự sát trong văn pḥng
Tư Lệnh.
Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam, những chiến
sĩ dũng mănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, suốt đời tận tụy
với nước non, đă hiến dâng cho tổ quốc những giọt máu đỏ thắm
tinh khôi cuối cùng của ḿnh.
Tên tuổi và tấm gương chiến đấu
của những vị thần tướng ấy măi măi lưu lại trong sử sách Việt
Nam và được dân tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói.
Phạm
Phong Dinh
Tay ôm má chống thù ǵn tấc
đất
Niềm thống khổ cuộn
thép gai quấn chặc
Tuổi xanh ơi! Ta chưa có
một ngày
Chỉ có đau với từng
tiếng nấc!
|