Những con chim sắt Skyraiders sau những ngày tháng
chiến đấu để bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam đă
phải cùng chia xẻ những đau thương của những ngày tháng cuối cùng của
VNCH.
Cuộc di tản chiến thuật rút bỏ Quân Đoàn 2 đă để
lại 64 phi cơ tại Pleiku (ngày 16 tháng 3 năm 75). Trong đó có 4 Cessna )-1 và 11 chiếc O-2
cùng 21 chiếc Skyraiders A- 1.
Cuộc di tản Đà-Nẵng (30/3/75) để lại 180 phi cơ,
trong đó không có chiếc Skyraider nào cả!
Sau ngày 30 tháng Tư, trong tổng số khoảng 1100 chiếc phi cơ
bị bỏ lại, có 26 chiếc Skyraiders...Không quân CSBV tiếp tục xử dụng lại
một số phi cơ khả dụng và đă dùng đến Skyraiders trong những cuộc
chiến tranh xâm lấn Cam-bốt (dùng chung với các loại F-5 và A-37, tuy nhiên không có h́nh ảnh
nào chứng minh cho việc dùng Skyraiders trong các phi vụ yểm trợ bộ binh) và sau đó
trong cuộc chiến tranh với Trung Cộng (Tháng Hai, 1979), không thấy nhắc đến
Skyraiders..
Tháng 4 năm 1988, các báo cáo Tây phương ghi nhận CSVN đă rao bán
trên thị trường vơ khí khoảng 200 phi cơ đủ loại trong đó có cả các
Skyraiders A-1 (Theo Tạp chí Air Combat September 1991).
Trong năm 1990, một số Skyraiders trong t́nh trạng hư hỏng
vẫn được để tại Phi trường Biên Ḥa như các chiếc A-1E (132428),
A-1H (135344). Chiếc A-1H (139674) được CSVN tân trang và triển lăm tại Viện Bảo
Tàng Quân Sự tại Sàig̣n: Chiếc phi cơ bị sửa đổi khá nhiều...gắn
ống phóng rocket dưới bụng...để nếu khi bay thật sự và bắn th́ rocket...sẽ
bắn vào cánh quạt của động cơ (Itsvan Toperzer).
Cũng theo thống kê của các giới chức Mỹ th́ trong những
ngày cuối cùng của VNCH, 132 phi cơ đủ loại đă bay được đến
Utapao-Thái lan, trong số nầy có 11 chiếc Skyraiders A-1 các kiểu E (5 chiếc), G (1 chiếc)
và H (5 chiếc).
- 7 chiếc thuộc Phi đoàn 514
- 3 chiếc thuộc Phi đoàn 518
- Và 1 chiếc thuộc Phi đoàn 530
Chiếc Skyraider A-1H số hiệu 139606, thuộc Phi đoàn 518 là chiếc
Skyraider sau cùng bay khỏi NVN đến Utapao, phi công điều khiển máy bay đă chở
cả gia đ́nh "nêm" chật cứng trong pḥng lái (mà danh từ Mỹ đă gọi đây là
hell hole)...Ngoài ra trong một chiếc A-1E, phi công đă cố gắng cất cánh chở theo
phi tuần trưởng và 20 người khác nhét cứng trong "blue room"!
Sau đó giữa CSBV và Thái Lan đă xảy ra một cuộc tranh chấp
về chủ quyền của các phi cơ thuộc KQVNCH.. Do sáng kiến và quyết định
táo bạo (?) của Tướng Harry Aderholt, Chỉ huy trưởng Phái bộ quân viện
Hoa Kỳ tại Thái Lan (MACTHAI) nên đa số các phi cơ này đă trở lại sở hữu
của Mỹ...
Sau đây là bài viết về cuộc di tản của các phi cơ VNCH
đến Utapao Thái Lan trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến (Escape to Utapao của
Ralph Wetterhahn đăng trong Air and Space/smithsonian số Dec-Jan 1997).
'...Vài ngày trước khi xẩy ra cuộc di tản của KQVN ra khỏi
Saigon, Aderholt đă gửi Đại úy KQ Roger L Youngblood bay đến Phi trường Trat nằm
sát biên giới Thái-Miên. Bay trên một phi cơ AU-23 của Không lực Thái (AU - 23 là một phi
cơ cải biến từ loại Pilatus PC-6, có khả năng đáp xuống được
các sân bay có phi đạo ngắn như Trat). YoungBlood đă bay ṿng ṿng trên không phận cùng một
phi công phụ VNCH. Phi công phụ nầy đă giữ tần số vô tuyến và hướng
dẫn các phi cơ VNVH bay về Utapao...nhưng không phải tất cả phi công VN đều
đến được Utapao...
Trong đêm 29 tháng Tư, Aderholt, có những cố vấn hoạt động
tại khắp Thái Lan, bắt đầu nhận được các báo cáo về các phi cơ
VN đáp xuống ruộng, xuống đường lộ hoặc bất cứ khoảng
trống nào mà phi công t́m thấy. Một chiếc A-37 đă đáp ngay xuống xa lộ gần
căn cứ KQ Korat, phía Bắc Bangkok, gần một trường học. Máy bay hăy c̣n đeo
bom dưới cánh. Aderholt đă gửi một Đại úy KQ HK đến để bay chiếc
phi cơ này về Utapao...
Ngày 1 tháng 5, Aderholt đă phải gửi các phi cơ trực thăng của
Lục quân HK chuyển các phi công và các thùng nhiên liệu loại 55 gallons đến nhiều
điểm ở Tháilan và cả Cambốt nơi các máy bay (kể cả trực thăng) đă
đáp xuống..
Sau đó để thu hồi các phi cơ có gía trị cao như F-5, A-37..Aderholt
đă dùng các trực thăng HH - 53 để đưa các phi cơ ra hàng không mẫu hạm
Midway đang đậu trong vịnh Thailan, riêng các A -1, trị gía thấp hơn ...nên đành
bỏ lại. Nhưng Aderholt không muốn mất những chiếc A -1 nầy nên ông ta đă
t́m các phương thức khác:
"..Aderholt đă ra lệnh cho Youngblood và Thiếu tá Jack Drummond, cả hai
đều từng bay Skyraiders, đến Utapao để bay các A-1 về một địa
điểm kín đáo hơn"
Họ đưa hai chiếc A -1 về căn cứ Takhli ở Trung Thái
và đậu trong các nhà kho kín, sau đó đưa được thêm 2 chiếc nữa, c̣n
7 chiếc kẹt lại tại Utapao...
Trong lúc Mỹ, Hà Nội và Thái tranh cải về chủ quyền các phi
cơ th́ 142 chiếc đă được đưa về Guam trên chiến hạm Midway và
các tàu khác của Hạm đội 7. Aderholt về hưu năm 1976, nhưng Ông ở lại
Thái thêm 4 năm, thời gian đủ dài để Ông t́m cách đưa 4 chiếc A -1 giấu
ở Takhli về Mỹ:
"Aderholt thuê xe kéo các phi cơ từ Takli ra sông Chao Prya, và chất 4 phi cơ
trên 4 chiếc xà lan chở về Bangkok, nhưng bị mắc cạn. Ông đă hối lộ
cho người giữ Đập Chainat 1000 đô la để mở nước...Xà lan đă
chở các phi cơ đến thương cảng, bốc lên tàu hàng để chở về
Mỹ..."
Sau đó nhà sưu tập máy bay chiến đấu Dave Tallichet đă
đưa 4 chiếc này về Los Angeles và tồn trử tại Phi trường Orange County
cho đến năm 1986. Tallichet tiếp tục bay một chiếc A- 1H (Số hiệu 135332,
thuộc phi đoàn 514) tại Phi trường Chino Field (CA). Một chiếc khác đang được
trưng bày tại Viện Bảo tàng Phi Cơ Santa Monica...Chiếc A -1H khác (139718, thuộc
Phi đoàn 514) cũng đang c̣n bay được...
Trần Lư (trong Skyraider và KQ VNCH)
NHỮNG NGÀY CHƯA QUÊN
...Để nhớ lại ngày
tháng cũ, nhớ Không quân, nhớ Vơ Bị.
Nguyễn văn An (Khóa 16)
nva. 1960.
Vào một đêm lạnh giữa tháng ba của Cali, anh chủ bút Đoàn Ph. Hải gọi
tôi cho biết Đa Hiệu số tới có chủ đề Hải Lục Không quân, Hải
yêu cầu tôi viết một bài. Tôi không biết phải viết ǵ đây ? -Để góp phần,
hôm nay tôi xin kể lại vài mẫu chyện nhỏ có liên quan đến những người
anh, người bạn Không quân và Vơ Bị đă nằm xuống hay c̣n sống mà tôi đă
cùng làm việc, bay chung, học chung hay đă tiếp xúc nhiều lần… được
coi như những kỷ niệm được nhắc lại.
Xếp bút nghiên.
Gần
cuối năm 1959, tôi đang theo học Đệ nhất B1 trường Quốc học
Huế ….
Được nhà trường cho biết tin trường Vơ Bị Quốc
gia Đà Lạt cần tuyển mộ SVSQ theo học khóa bốn năm; sau khi ra trường
được chọn Hải, Lục, Không quân và được cấp phát văn bằng
tốt nghiệp tương đương Đại học Khoa học. Tôi phấn khởi,
cơ hội tốt đến với tôi chăng ? Tôi có thể tiếp tục việc học
để sau nầy trở thành nhà giáo, nhưng trong tôi, vẫn ám ảnh măi h́nh ảnh người
cha trong bộ quân phục đậm màu mà lúc nhỏ tôi rất ưa thích. Lớn lên tôi cũng
có những khát vọng cao xa… Tôi không thể ngồi yên. Cuối cùng bỏ học đường,
bỏ sách vở, từ giă người bạn áo trắng vừa thân quen. Tôi đi, mang theo
sức sống hai mươi, gia nhập trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Tháng
11/1959 tôi nhập học khóa 16 trường VB/ĐL. Khóa tôi có trên hai trăm người, gồm
những thanh niên trẻ khắp mọi nẻo đất nước miền Nam về đây
để thi-thố, thử-thách với những cam go trước mặt...
Sự hăm
hở, háo hức ban đầu khi tập trung ở trước cổng trường đă
nhường chỗ cho sự thất vọng, căm tức sau đó… Mới vào đă
bị bắt chạy, đă bị khoá 14 đàn anh hành hạ, la lối, nạt nộ…
Có người ném cả hành lư ở dọc đường, không muốn nhặt lại. Vào
đây rồi là bị hành xác, bị kỷ luật. Phải từ giă mái tóc bồng bềnh
bay bướm cuả thuở nào. Tập ḅ, tập chạy, tập ăn, tập nói, tập
đi, tập đứng, tập ngồi… Học tập, canh gác dồn dập suốt
ngày. Sau hai tuần lễ tất cả đă mất hết dáng dấp thư sinh. Một số
chịu không nỗi hoặc bị bệnh xin trở lại dân chính. Cố gắng rồi
tôi cũng qua được. Sau tám tuần lễ sơ khởi phải chinh phục đỉnh
núi Lâm Viên, về mới được gắn cấp hiệu Sinh Viên SQ.
Năm thứ
nhứt bắt đầu với mùa học văn hoá và quân sự. Kỷ luật thật
gắt gao, học tập và canh gác... Luôn luôn phải tỏ ra là Sinh viên gương mẫu;
chào kính khóa đàn anh nghiêm chỉnh và làm gương cho khóa đàn em…
Kết quả
năm đầu: hơn năm mươi người phải rời khỏi trường
v́ thiều điểm văn hóa, mặc dù điểm quân sự cuả họ khá cao…
như các bạn Thái quang Cẩm, em của Tướng Thái quang Hoàng...
Giữa năm
thứ hai, chúng tôi bắt đầu chọn quân chủng. Mộng đă thành sự thật
đây… Hồi rất nhỏ khi tôi học tiểu học trường làng, thầy có
dạy bài thơ nói về máy bay, độc đáo như sau :
Máy bay thần t́nh thật
Khi là là mặt đất Khi tít tịt trên không Lanh như con chim cắt Bay mà cánh
không rũ Tiếng kêu ù ù dữ Hể nó bay đến đâu Rung rinh cả vũ
trụ. Tôi cho là hay lắm … Lớn lên khi học trung học, tôi nhớ đọc
cuốn truyện Đời Phi công cuả Toàn phong Nguyễn xuân Vinh. Chàng học bay bên trời
Tây gửi thư về cho em ở quê nhà, có đoạn : “…Ban đêm nh́n lên trời
em đếm được bao nhiêu v́ sao, t́nh anh yêu em c̣n hơn thế nữa…” T́nh
tứ và lăng mạng quá… Cho nên, mê không gian là điều tôi từng ấp ủ trong ḷng.
Thế rồi một số SVSQ đưọc chọn về Sài g̣n, vào Trung tâm Giám định
Y khoa KQ ở Tân Sơn Nhất, khám sức khỏe, bị loại khá nhiều v́ thiếu tiêu
chuẩn. Tôi ở trong toán thủ Quốc và Quân kỳ của nhà trường : có tám người,
được chọn năm người, ba người bị rớt sức khoẻ : có
Tôn thất Chung -người cao ráo, khá bảnh trai, thủ Quân kỳ bị loại v́ mắt
loạn thị. Chàng ta buồn lắm. Cuối cùng có khoảng 20 người được
chọn gia nhập K.Q.
Cuối năm thứ hai ở quân trường, không khí đă
khá dễ thở hơn, việc học tập được đà trôi chảy, hoa mai vàng
cầm chắc trong tay. Bấy giờ chúng tôi là đại niên trưởng, được
ra phố cuối tuần thoải mái hơn. Khoá 15/ĐL đă ra trường, khóa 17/ĐL
được một năm, chúng tôi phải làm Huấn luyện viên cho khóa 18/ĐL trong tám
tuần sơ khởi.
Thời gian rồi cũng qua mau… đă gần hết năm
thứ ba, khóa 19/ĐL đă nhập học. V́ nhu cầu chiến trường lúc bấy giờ,
khóa tôi phải măn khóa sớm hơn gần một năm. Chúng tôi lại phải tập diễn
hành, tập trận Đống Đa, chuẩn bị cho ngày măn khóa. Hôm đó là ngày 22-12-62.
Một ngày thật đẹp trời, tôi c̣n nhớ măi … Lễ măn khóa đă diễn ra
thật trang nghiêm, có Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm và quí vị Tướng lănh, quan khách
ngoại quốc tham dự…. Hai tiểu đoàn SVSQ K.16 hơn hai trăm ngừơi sắp
thành hai khối ngay ngắn trước khán đài danh dự, với quân phục đại
lễ màu trắng, SV khóa sau đứng hai bên. Sinh viên thủ khoa K.16/ĐL là bạn Bùi Quyền
đứng giữa, gần khán đài. Sau diễn văn ngắn của Tổng thống NĐD.,
T.T. đặt tên cho khóa là khóa “Ấp Chiến Lược”. Ông Chỉ huy trưởng,
cựu Đại tá Trần ngọc Huyến dơng dạc hô: “Quỳ xuống SVSQ!”,
những cặp lon với hoa mai vàng được các SQ./HLV gắn lên vai cho mỗi người
; “Đứng dậy Tân Sĩ quan”, tất cả đồng loạt đứng
lên, như cả một mùa xuân bừng dậy… Trong ḷng mọi người hân hoan, rộn
ràng niềm vui khó tả. “-Đêm nay mới thật là đêm, Ai đem trăng tưới
lên trên vườn chè.”
nva-1963
Những ngày tháng Không quân.
Ngày tháng Không quân
bắt đầu. Đầu năm 1963, chúng tôi tŕnh diện Bộ Tư lệnh KQ. Tư
lệnh KQ lúc ấy là cựu Đại Tá Huỳnh hữu Hiền. Chúng tôi làm các thủ tục
ở pḥng nhân viên; một số bạn v́ vấn đề an ninh bị đưa về lại
Bộ binh. Mọi việc xong xuôi, chúng tôi chuyển về căn cứ Huấn luyện /KQ
ở Nha Trang, học Anh văn để đi du học. Mọi người phấn khởi,
nhưng không kém phần lo lắng. Lại học, học nữa… những khó khăn đang
đón chờ. Lúc đó Chỉ huy trưởng căn cứ HL/KQ ở Nha Trang là cựu Trung
tá Nguyễn ngọc Oánh; Tiểu đoàn trưởng SVSQ và Khóa sinh là cựu Đại úy Đinh
thế Truyền ; HLV Anh văn là cựu Đại úy Toàn và anh Hiển. Về Nha Trang, ở
trong căn cứ, cơm hai bữa đă có câu lạc bộ. Khí hậu ở đây mát mẻ,
cảnh đẹp, có dừa xanh, với băi cát trắng chạy dọc đường Duy
Tân, có những Kios răi rác. Mỗi chiều, sau một ngày học Anh văn, luyện giọng,
làm test, ra ngồi băi biển mà hưởng cái mát, cái âm thanh ŕ rào cuả sóng biển mà ngẫm
cuộc đời, nghĩ đến trường cũ, bạn bè mỗi người một
nơi. Cuộc đời thật đáng yêu, nhưng cũng lắm thử thách, nhiều
biến chuyển. Hàng ngày chúng tôi học Anh văn, làm Sĩ quan trực cho khóa 62C và khóa 63A.
Có những buổi ra phi đạo học và quan sát các phi cơ, làm Baptême de l’air để
lănh tiền bay. Một hôm đi học trở về, ngang qua phi đạo thấy có một
số SQ/phi công Khu trục đứng ở hangar. Họ mặc áo bay, đội nón rộng
vành như Cowboy, mang súng, chống nạnh trông rất hách, nh́n chúng tôi một cách ít cảm t́nh.
Có anh nói vọng vào : “Các ông bay bỏ bố chỉ có Trung uư; các anh mới qua đi học
mà đă mang lon Thiếu uư.” Nhưng, rồi cũng là anh em cả, sau nầy chúng tôi rất
gần gũi và thân mật với các anh nầy.
Mấy tháng học tập, rồi thi
ESL, một số đủ điểm được đi học bay Trực thăng ở
Hoa Kỳ, có các bạn : Trương thành Tâm, Bảo Sung, Vĩnh Quốc, Hùng, Trần châu Rết,
Nguyễn văn Ức, Dương quang Lễ, Bửu Ngô, Tân, Đinh quốc Thinh v.v…;
học Khu trục có : Nguyễn Anh và Mai nguyên Hưng ( Hưng về sau bị tử nạn
phi cơ, sau một phi vụ oanh kích trở về.) Phần c̣n lại có tôi, Toản, Toàn (tức
‘Tây già’ ), Khôi ( ‘già Rô’), Trừng, Nhường, Đằng, Tùng, Vọng,
Châu ( ‘Thộn’ ), Châu ( ‘Lổ’ ), Châu ( ‘Ông chủ’ ). Phía KQ, có Vinh,
Vơ, Hậu, Ba ( ‘Bụng’ ), Hạnh, Phước, Khâm, Cao. Tôi về lại căn cứ
TSN học khóa I Trực thăng với phi cơ H.19 do SQ/HLV Hoa Kỳ đảm trách. Phía Viêt
Nam có cựu Đại úy Nguyễn huy Ánh ( sau nầy là Chuẩn tướng Sư đoàn
trưởng SĐ 4 KQ; bị tử nạn phi cơ năm 1972. ); có Đại úy Thập
- là SQ đại diện và theo dơi khóa học. Đây là khóa học Trực thăng đầu
tiên tại Việt Nam. Không quân Hoa Kỳ biệt phái các SQ/HLV có khả năng nhất của
họ; một số phi cơ H.19 mới được chuyển qua TSN. Các người trẻ
mới ra trường, thích bay bổng, ai cũng tỏ ra hăm hở, thích thú. Tôi và Toàn (‘Tây
già’) cùng bay với HLV là Lt. Albertson; sau tôi đổi qua bay chung với Toản và HLV Capt.
Mayo. Lần đầu đi học, được HLV bay biểu diễn quanh vùng Sài g̣n, bay
lượn lă lướt, khi nhanh lúc chậm, lên cao xuống thấp… hover, force landing,
autoration… để xem phản ứng của ḿnh. Tôi rất b́nh tỉnh và tỏ ra thích
thú nữa. Có lần, HLV bay một lúc rồi nói : “You have it”; tôi đáp “Okay, I
have it”. Dưới đất đă briefing trước khi bay, nhưng lần đầu
cầm lái nên tôi hơi vụng về. Tôi cố gắng và chăm chỉ rồi cũng quen
thôi. Cuối cùng thầy thả cho tôi bay Solo. Đáp xuống một ḿnh được, HLV
và các bạn ôm choàng mừng rỡ. Sau đó là đến giai đoạn bay instrument… trước
khi ra trường.
Đ/úy Ánh bay “check progress” với tôi, ông bảo : “Anh
bay cũng smooth lắm…”. Tôi biết tôi “gặp” trở ngại rồi.
Lâm
quang Đằng và tôi được BTL/KQ cho đi học khóa Quan Sát; khoảng giữa năm
63, cùng học với Sĩ quan Thủ Đức chuyển qua, có các bạn như : Nguyễn
Phụng, Lưu, Khai, Nguyễn hữu Cảnh ( sau bay C.130 ở Phi đoàn 437 ), Kiệt, Sơn…
Tôi lại trở về Nha Trang, gặp lại các anh em Khóa 17/ ĐL đang học khóa I Cessna,
như : KQ Lê sĩ Thắng, Nguyễn duy Diệm, Nguyễn văn Th́nh, Vỏ Ư, Vơ phi Hổ,
Ngô Nhơn, Ṭng, Thanh, Nhựt, Tám, Hựu, Huy, Vũ, Khải, Xuân, Anh, Lợi…
Chúng
tôi được chuyển về Biên Ḥa tiếp tục học Quan Sát - Đại uư Trịnh
văn Thân làm SQ trưởng toán HLV. Chúng tôi được măn khoá và thuyên chuyển đi các
Phi đoàn.
nva|H.19-1963 Phi đoàn 110.
Đầu năm 1964 tôi và KQ Đằng (sau
tử nạn trong phi vụ hành quân 1965) được đưa về Phi đoàn 110 ở
Đà Nẵng, gặp lại các KQ khoá 17/ ĐL như : Vũ, Thắng, Diệm, Khải, Xuân,
Anh, Hựu, Lợi… Tôi cũng gặp lại các bạn Khoá 16/ ĐL như KQ Cao quảng
Khôi và Châu ( ‘Thộn’ ) và biết các anh “Thợ bay” Trực thăng như
KQ Nguyễn kim Bông, Đặng văn Phước, Vơ văn Triệu.
Vùng điạ đầu
hỏa tuyến… có khá nhiều phi vụ hành quân. Toàn sĩ quan trẻ, đa số c̣n
độc thân, không khí thân mật, bay chung với nhau rất vui. Mỗi khi đợi phi vụ,
có th́ giờ là đọc truyện kiếm hiệp, chơi Domino, thỉnh thoảng lén chơi
x́ phé. KQ Trần Dật rất hên, hay ăn lường đứng dậy đ̣i về, bị
anh em chửi. KQ được ở thành phố, có vẻ nhàn nhă, nhưng nhiều hiểm
nguy đang đợi chờ. Khi có phi vụ hành quân là họ xông xáo, bất chấp lửa
đạn để yểm trợ quân bạn ở mọi t́nh huống, họ hết ḷng
với trách nhiệm, họ góp phần mang lại thắng lợi cho binh chủng bạn.
Cũng có lắm chuyện đau ḷng, như một hôm, vừa ăn điểm tâm ở câu
lạc bộ buổi sáng, trưa không bao giờ c̣n gặp nhau lại nữa. Bạn Được
Phi đoàn 516 bị trúng đạn khi chúi xuống thả bom, trong phi vụ yểm trợ
quân bạn, mấy hôm sau mới mang xác về. Ôi, “Không quân đi, không ai t́m xác rơi…”
Không
quân lẫm liệt như thế, mong rằng có một hai con sâu sẽ không “làm rầu
nồi canh”.
Chỉ huy trưởng Phi đoàn 110 lúc đó là Đ/uư Ngô tấn Diêu,
có Đ/uư Hoạt, Ba Lư, Nhơn, Lượng. Về sau Đ/uư Mạnh thay thế Đ/uư Diêu.
Phi đoàn bạn là Phi đoàn Khu trục 516 -có QK Vượng, Châu, An, Du… Tôi có nhiều
phi vụ hướng dẫn Khu trục đi đánh phá những mục tiêu và căn cứ
cuả địch ở những vùng đồi núi sông rạch xa về phía Tam Kỳ. Nhớ
hôm đi biệt phái Quảng ngăi, bay chung với phi công Mỹ, một hôm được lệnh
hướng dẫn Khu trục oanh kích tự do một vùng đồi núi ở phiá tây bắc
Quảng Ngăi. Khi bay xuống thấp thấy toàn thường dân mặc aó quần đen đang
làm rẩy; sợ chết lầm dân vô tội, tôi đă hướng dẫn phi tuần AD6 thả
bom trên núi. Về phi đoàn, tôi báo cáo pḥng Quân báo : “Thấy có đám cháy lớn; hai tiếng
nổ phụ… Chiến trường đă sôi động từ lúc đó.”
Huế
và tôi.
Phi đoàn 110 ở Đà Nẵng gần Huế nên tôi rất thích. Huế đối
với tôi có quá nhiều kỷ niệm. Tôi sinh ra và lớn lên ở đó, tôi c̣n nhớ các
trường học mà tôi đă từng mài đủng quần từ lúc c̣n ấu thơ :
trường tiểu học An truyền, Gia hội; học lớp Nhất trường Thế
Dạ. Tôi c̣n nhớ tên Công Tằng Tôn nữ thị Phùng Thăng, nhớ Lan hay phụng phịu
xin bỏ bớt điểm xấu v́ hay nói chuyện trong lớp mỗi khi tôi giữ bản
“Linh hoạt”. Nhớ thôn Vỹ, nơi có ḍng họ Nguyễn Khoa, nổi tiếng
khoa bảng… và những tên đẹp như Nguyễn khoa Diệu-Trang, Diệu-Hạnh
v.v…; nơi mà Hàn Mặc Tử đă một thời vương vấn :
Có ai về
chơi thăm thôn Vỹ Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chử điền… Phía Hàng me, bên kia Đập
đá có Nga Mi, Trà Mi, Diệm Mi ( em của KQ Nguyễn đ́nh Huệ bị tử nạn khi
làm HLV Cessna ở Nha Trang; khi anh cố đáp sau đuôi của C130 đang cất cánh.).
Nhớ
trường Trung học Nguyễn Tri Phương -nơi mà năm 1952 khi thi vào Đệ thất,
tôi đỗ hàng thứ ba; người đỗ đầu là Trần đại Bưu ;
thứ hai là Nguyễn Doăn ; thứ tư là Nguyễn văn Cung ( hiện làm Bác sĩ ở
Orange County ). Trong số ba trăm thí sinh trúng tuyển cuả một đám học sinh hơn
hai ngàn người dự thi : gồm học tṛ ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngăi, Hội
An về hội thi. Mẹ tôi rất vui mừng !.
Trường Quốc Học với
cổng trường màu đỏ uy-nghi; có hàng phượng Vĩ với sân rộng, nhà chơi
lớn; vào hè có ve kêu rền rỉ báo hiệu mùa thi sắp đến. Năm đệ Nhị,
học sinh “học gạo”, học hết ḿnh. Có khi ra học dưới ánh đèn
đường trước nhà cho thoáng mát. Phải học để thi đỗ v́ tương
lai cho ḿnh mà cũng là niềm hănh diện của gia đ́nh; phải đỗ Tú tài I v́ sang
năm lên đệ Nhất được học chung với con gái đẹp từ trường
Đồng Khánh qua. Hai trường Quốc Học và Đồng Khánh rất gần nhau, đám
con trai thường đứng bên nầy nh́n qua hoặc trêu ghẹo đám con gái áo trắng
phía bên kia. Có lần bị thầy Hiệu trưởng Nguyễn văn Hai bắt gặp;
ông xỉ vả, la mắng cho một trận mới thôi.
Huế với sông Hương
núi Ngự với đền đài lăng tẩm; nơi của mộng mơ. Có cầu Trường
Tiền sáu vài mười hai nhịp; với mưa dầm gió bấc; với những cơn
lụt lớn… Huế có bánh bèo bến Ngự, bún ḅ Gia Hội; có nữ sinh với áo
dài tha thướt… với tiếng guốc khua vang rộn vỉa hè mỗi buổi tan
học về. Về các cô gái Huế, Hà huyền Chi có những vần thơ hay :
Gái
Huế cười duyên sau nón Huế Trái tim bọc vải quấn trăm ṿng Đă như
biển động c̣n e lệ T́nh nấp đằng sau những chấn song ……
T́nh cảm của tôi đối với Huế thiết tha như vậy… Nên khi
ở căn cứ Đà Nẵng, tôi thường đi theo KQ Mai lái trực thăng về
đó thăm khi có phi vụ.
“Trước sau nào thấy bóng người Hoa đào
năm ngoái c̣n cười gió đông…” Biết là những người bạn năm
xưa không c̣n nữa… tôi vẫn muốn về thăm Huế.
Đà Nẵng với
tôi.
Đà Nẵng cũng là nơi đáng ghi nhớ của tôi. Ở đó, tôi được
quen ông cụ thân sinh người bạn đời cuả tôi. Ông uyên thâm Hán học và giỏi
về môn tử vi. Lúc đó nàng đang học Dược năm thứ hai ở Sài g̣n, cùng
là bạn đồng song với chị Hiếu ( phu nhân của KQ Đặng kim Qui ) và chị
Thanh Hương ( phu nhân cựu Ch/T KQ Nguyễn văn Lượng ).
Gần cuối năm
65 tôi lại phải thuyên chuyển về làm tại Bộ Chỉ Huy Hành Quân KQ, cũng được
thuận tiện cho tôi được gần gũi và làm lễ cưới với nhà tôi.
Bộ CH. HQKQ.
Về BCHHQ/KQ tôi làm SQ trực Không vận, trưởng pḥng là Th/Tá
Trịnh văn Đào; ông vui tính và hay nói đùa, dáng rất khoẻ mạnh. Ở đây c̣n
có Đại uư Quách văn Hảo trưởng pḥng ALO, Đại uư Hồ thế Hạo
-trưởng pḥng Quân báo, Đại uư Bách, Tr/uư Hồng, Hiền TV, Sính. Chỉ huy trưởng
là Tr/tá Vũ thượng Văn; CHP là Tr/tá Nguyễn hữu Tần (sau là Ch/tg SĐT/SĐ4
KQ). Mỗi chiều phải biết phi cơ khả dụng của Vận tải, Trực
thăng để sắp xếp các chuyến bay hôm sau; thường xuyên theo dơi các phi vụ
chuyển vận, tải thương, tiếp tế… Công việc bận rộn, có Th/tá
Đào hay pha tṛ nên cũng vui. Rất tiếc Th/tá Đào đă thiệt mạng do tai nạn
xe cộ ở đường Công Lư, trên đường về nhà. Hôm đưa đám anh,
tôi về nhà lấy phong pháo c̣n lại đem đốt dưới chỗ để ḥm, để
khi di quan hồn ma sợ mà đi, không c̣n lẩn quẩn ở nhà nữa ( !? ) Trong khoảng
thời gian nầy, có Th/tá Anh và Th/tá Long (oanh tạc Dinh Độc Lập 1962) bị tử
nạn khi bay chung trên AD6 trong phi vụ huấn luyện ở Biên ḥa.
Đầu năm,
BCHHQ dời qua khu nhà lầu lớn do KQ/ Hoa kỳ trao lại; Tr/tá Huỳnh văn Tính làm CHT,
Tr/tá Nguyễn văn Lượng CHP, các pḥng sở được tổ chức, trang bị
đầy đủ. Các SQ có người đến kẻ đi… Tr/tá Trịnh hảo
Tâm Trưởng khối Hành quân; Tr/tá Lê minh Luân Trưởng khối Kế hoạch; Tr/tá Phạm
hữu Lộc Trưởng khối Không vận -có KQ Cương ( ‘Khào’ ) và Nguyễn
văn Cử; Đại uư Nguyễn hữu Tuấn trưởng pḥng ALO. Tôi làm SQ trực
Hành quân chung với SQ trực Hoa kỳ. Công việc khá bận rộn, trách nhiệm nặng
nề v́ phải liên tục điều động và theo dơi các phi vụ yểm trợ hành
quân khắp bốn vùng chiến thuật.
Tết Mậu Thân 68.
Đ/uư Tuấn gọi
tôi và KQ Đinh sinh Long đi bay quan sát Sàig̣n trên Cessna U17 lúc sáng sớm, bay ṿng Bệnh viện
Cọng Ḥa đă thấy có mấy đám cháy; đài phát thanh, chợ Thiết cũng có đám
cháy; thấy cả quân ta đang giao tranh với VC; dân chúng chạy hớt hăi hỗn loạn.
Anh Tuấn cho máy bay xuống thấp gần ngọn cây để quan sát trên đường
xuống Mỹ Tho, gần Bến Lức th́ bỗng nghe tiếng nổ lộp bộp; đúng
là một loạt đạn từ súng AK đang nhắm bắn vào chúng tôi. Phi cơ bị
trúng đạn. Tôi thấy xăng chảy nhiều ở hai cánh, phi cơ mất cao độ,
tôi rờ soát thân thể không thấy bị thương, tôi yên tâm. ĐSL liên lạc vô tuyến
về BCHHQ/KQ báo cáo địa điểm bị bắn, anh Tuấn phải đáp khẩn
cấp xuống phi trường B́nh Đức. VC c̣n rót súng cối 81 ly vào thêm mấy quả…
Hoàn cảnh chúng tôi lúc đó thật nguy hiểm. Trên phi trường không thấy phi cơ,
không có bóng người; chúng tôi cũng không có súng để tự vệ. Chúng nó vào bắt
chắc khó thoát… chết. Đến chiều may có một Cessna lên đón. Phi cơ đáp
hờ xuống, chúng tôi phải chạy theo; cửa mở sẵn, nhảy lên thật lẹ
và cất cánh luôn. Trời đă tối, thấy tôi về, nhà tôi mừng đến phát khóc.
Sau đó phi cơ được câu về, anh Cơ khí viên đă đếm có hơn bốn
mươi viên đạn AK trúng khắp thân và hai b́nh xăng. Anh Tuấn nói với chúng tôi:
“Tụi bây bay với tao khỏi lo, ông Huỳnh Liên xem tao có mạng lớn đạp
lên ḿn cũng không nổ…” Thời gian ngắn sau đó anh đă bị nát thây v́ quân
khủng bố gài lựu đạn dưới xe Jeep của anh đậu trước nhà
ở đường Trương minh Giảng.
Giữa năm 69, Đ/tá Vũ văn
Ước về làm CHT BCHHQ/KQ; CHP là Đ/tá Vơ công Thống; các khối và pḥng sở được
sắp xếp qui cũ. Tôi làm Phụ tá trưởng pḥng Thống kê và Huấn luyện. Tôi
đă huấn luyện được nhiều khóa SQ/LLĐK cho các SQ bên Hải quân gửi
qua học và cũng đă tổ chức nhiều khóa Tr/sĩ cho các binh sĩ thuộc bốn
TTHQ/KT. Tôi có nhiều sự liên hệ với Tr/tá Tôn thất Lăng (K.16), KQ Hoàng như Á thuộc
TTHL/KQ ở Nha Trang.
Khóa 3/70 CHTM/KQ.
Tôi không được đi biệt phái hành quân
Kampuchia; nhưng được Đ/tá Ước đề cử theo học khóa 3/70 Chỉ
huy và Tham mưu Trung cấp KQ tại Nha trang. Cựu Đ/tá Trần Phước là CHT của
trường; Tr/tá Đặng văn Hậu là SQ Trưởng pḥng Nghiên Huấn. Tôi gặp
lại các anh em K16 và K17/ĐL làm HLV như KQ Vĩnh Quốc, Đinh quốc Hùng, Nguyễn
văn Th́nh… Khoá 3/70 phần lớn là cấp bậc Th/Tá như: KQ Phạm văn Hiệp,
An văn Nhất, Trần đ́nh Giao, Phiếu, Cầu, Lượng ( ‘Môi’ ), Hùng (
‘ống nhổ’ ), Ngọ, Thủy, Lạc… Một số trong khóa ở ngành Vận
tải, nên week-end nào cũng có C47 đón về SNG. Một hôm phi cơ cất cánh từ Nha
Trang bay về phía biển chưa được bao lâu th́ nghe động cơ kêu lụp bụp,
mất cao độ, anh em hơi tái mặt, anh AVN nhanh nhẹn dành tay lái - điều chỉnh
một lúc, phi cơ bay b́nh thường về đáp SGN luôn, anh em nh́n nhau mà mừng.
Mấy
tháng học CH/TM ở NTG, tôi có nhiều kỹ niệm. HLV và học viên thảo luận nhiều
vấn đề thuộc nhiều lănh vực: Thông đạt; giao tế; giải quyết
vấn đề; tổ chức quân đội v.v… thể thao thể dục được
luyện tập hằng ngày. Không khí lớp học sôi động, hợp tác và có sự tôn
trọng ư kiến lẫn nhau. Lễ măn khóa được tổ chức trang nghiêm, đỗ
đầu lớp là SQ Phạm văn Hiệp.
Tôi học Luật.
Về SGN tôi tiếp
tục đi học trường Luật. Trước đó, tôi đă ghi danh học Luật,
nơi có “con đường Duy Tân cây dài bóng mát…”; tôi đă trả lời người
bạn học rằng : “Anh ở dân sự học được, tôi là quân nhân nhưng
nếu có cơ hội, tôi cũng học được.” Khi xong công việc hoặc sau
giờ làm việc là tôi vội vàng đến trường, ghi chép, nghe lời thầy giảng.
Viện Trưởng là Gs. Vũ văn Mẫu; các Gs giảng viên là Tăng kim Đông, Nguyễn
văn Vọng, Vũ quốc Thông, Vũ quốc Thúc, Trần chánh Thành, Gs Nguyên văn Lại.
Tôi không có th́ giờ nhiều và không được thoải mái khi có giờ học cần
nghe mà công việc ở BCH th́ chưa xong, tôi đành phải mặc nguyên quân phục, có khi
mang cả lon lá đến trường luôn cho kịp giờ học. Các người bạn
học thấy tôi ở nhà binh mà chịu khó, họ đâm có cảm t́nh. Tôi được
may mắn gặp CHT là Đ/tá Ước đă nâng đỡ cho đàn em hiếu học. Ông
lờ để tôi được đi học là quí lắm rồi. Sau bốn năm học,
tôi đă lấy xong Cử nhân Luật (ban Công pháp).
Thừa thắng xông lên. Tôi ghi danh
học Cao học khóa II Chính trị & Kinh doanh thuộc Viện Đại học Đà lạt,
có chi nhánh tại Thương xá Tax ở SGN. Viện trưởng lúc đó là Gs. Phó bá Long. Điều
ngẫu nhiên lư thú là tôi gặp anh Nghiêm xuân Khuyến ( cựu Tr/tá KQ ), anh dạy tôi về môn
Tiếp Thị. Gặp tôi, anh cười hỏi: “Cậu vào học đây à ?”; “Dân
học mà, cũng như anh vậy!” Tôi đáp, anh em cùng cười x̣a vui vẻ. Anh thường
quây bài ronéo, phát từng đống cho SV mang về học. Có các môn khác như: Phân tích Định
lượng ( Gs Dật ); Tài chánh xí nghiệp ( Gs Uông ); Động thái tổ chức (Gs Long
); Thẩm lượng dự án đầu tư ( Gs Hiển ). Một nhân vật làm rạng
danh KQ là anh Dương xuân Nhơn ( cựu Tr/tá KQ ), anh đă đỗ đầu Khóa I Cao
học ban Kinh doanh, nhà trường ai cũng biết anh học giỏi. Tôi sắp thi cuối
năm I th́ gặp biến cố trọng đại của đất nước.
Tháng
Tư buồn.
Nhà tôi làm việc cho Bank of America ở SGN. Chúng tôi được nhà Bank
cho di tản khỏi Việt Nam. Nhờ ơn Trời Phật che chở phù hộ; trong đời
tôi được gặp nhiều may mắn ! Giám đốc của BofA là ông Tussey và anh Lê
hữu Lựu, anh Vỏ văn Thân trưởng pḥng Nhân viên đă dàn xếp sắp đặt
cho chúng tôi được đi. Hôm đi có một số quân nhân thuộc gia đ́nh các bà.
Quân nhân có thể bị Quân cảnh bắt trở lại; ông người Mỹ/CIA cho biết
như vậy. Có người muốn trở về. Cuối cùng nhờ sự lanh trí và khôn
khéo của chị Mộng Lan -phụ tá Tr. pḥng Nhân viên, t́m cách đưa chúng tôi vào căn cứ
DAO ở trong phi trường TSN. Chiều ngày 24/4/75 ở trong DAO, tôi có mặc cảm của
một quân nhân đào ngũ; nhưng tôi biết hoàn cảnh khó khăn của đất nước
lúc bấy giờ. Bỏ nước mà đi, mọi thứ để lại đằng
sau… Chiều hôm đó tôi thấy có một số SQ có cấp bực và chức vụ cao
đă đưa thân nhân của họ vào để đi trước. Sáng ngày 25/4/75, C130 của
KQ/Hoa kỳ đưa chúng tôi đến Guam. Sau đó chuyển đến căn cứ Pendleton
ở San Diego. Khoảng một tháng sau, chúng tôi được BofA bảo lănh về ở tại
Alvingroom – Oakland, California.
Cuộc sống mới.
Cuộc sống mới nơi
đất khách, chúng tôi thấy xa lạ. Lúc đó người Việt ta qua đây không nhiều,
đi chợ hoặc shopping gặp nhau mừng lắm, lạ cũng thành quen, hỏi han chuyện
tṛ ríu rít. Nhà hàng ăn cũng ít có, ở Oakland mà phải lái xe hơn nửa tiếng qua bên
San Francisco để ăn một tô phở. Có được tape nhạc nào là trao cho nhau mượn,
sang băng lại mà nghe. Mỗi người biết làm một món ăn, các bà trao đổi
kinh nghiệm, về sau ai cũng biết nấu mỗi ngươi vài ba món: phở, hủ
tiếu, bún ḅ Huế… Các con em được đi học trường địa phương.
Chỉ một thời ngắn sau các cháu đă theo kịp và học rất khá. Trong nhóm gia đ́nh
làm nhà bank, có người th́ đi học, người đi làm công việc khác nhau. Nỗi
buồn xa nơi chôn nhau cắt rốn, xa quê hương, mất mát, xa người thân thuộc,
gia đ́nh tan nát đè nặng lên tâm tư mỗi người. Cuộc sống bận rộn,
tháng ngày cũng lặng lẽ trôi qua. Chúng tôi cũng biết được một số
tin tức bên quê nhà. Tôi vừa đi làm vừa đi học về Data processing vài năm trên
College, sau tôi đi làm cho Tymeshare, GTE, Amdhal và sau cùng làm Programmer/Analyst cho Wells Fargo Bank trong toán
Maintenance/development ( language chính là Cobol.). Đồng lương của Mỹ cũng không phải
dễ. Khi phải trực “on call”, có đêm 2, 3 giờ sáng bị gọi để
sửa chữa System khi có trở ngại; gặp lỗi phức tạp phải mất cả
hàng giờ. Hệ thống Mainframe, CPU khá lớn, một giờ máy không chạy mất của
họ rất nhiều tiền. Trời San Francisco lạnh mà đôi khi tôi đă toát mồ hôi.
V́
đâu nên nỗi?.
Có lúc buồn, tôi miên man nghĩ ngợi… Tôi có hơn mười
lăm năm trong quân ngũ, có lẽ tôi đă đóng góp phần nhỏ công sức của
ḿnh cho đất nước. Những người bạn, những người lính anh hùng
của Quân đội VNCH đă bền gan chiến đấu trong hơn hai mươi năm
th́ công lao của họ quá lớn lao. Bao nhiêu người đă nằm xuống, bao nhiêu xương
máu đă đổ để bảo vệ miền Nam tự do. Sau ngày miền Nam sụp đổ,
có nhiều người đă viết về nhiều nguyên nhân, có thể đúng ít nhiều.
Sự kiện một chính thể Quốc gia bị xóa tên trên bản đồ, một dân
tộc bị gông cùm đói khổ, th́ không thể chỉ có một nguyên nhân đơn thuần,
mà do nhiều nguyên nhân phức tạp khác tạo nên : Chính sách thối nát, chính khách bất nhân,
đồng minh phản bội, nhà tu bán lương tâm, nội tuyến tung hoành… và dĩ
nhiên, c̣n nhiều nguyên nhân khác. Dù nguyên nhân nào đi nữa, nếu không có sự hy sinh to lớn
của Quân đội VNCH, không có những chiến sĩ anh hùng quả cảm, không có những
chiến thắng vẻ vang oanh liệt của Quân đội ta th́ với ư đồ xâm chiếm
miền Nam và bản chất ‘gian manh’ của VC, chắc miền Nam chúng ta đă mất
từ lâu vào tay người Cọng sản. Không biết ngày nay chúng ta sẽ ra sao?
Có
khi, cách đây 18 năm, tôi cũng lẩm cẩm nghĩ rằng: Nếu như quân đội
chúng ta c̣n tồn tại đến bấy giờ -theo luật đào thải, tre già măng
mọc, th́ thế hệ chúng tôi đă có những người thuộc Không quân, Hải quân,
Thủ Đức, Vơ bị Đà Lạt đă có những vị có cấp bậc lớn,
cầm giữ những chức vụ quan trọng trong Quân đội. Hồi trước
75, riêng khóa 16/ĐL đă có những người mang cấp bậc Đại tá, giữ các
chức vụ: Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng, Lữ đoàn trưởng,
Lữ đoàn phó của Nhảy dù và TQLC, như : Nguyễn văn Huy, Nguyễn hữu Thông,
Nguyễn Thiều, Vĩnh Dác, Đăng phước Thành, Nguyễn xuân Phúc, Đỗ hữu
Tùng, Nguyễn đằng Tống, Lê minh Ngọc… KQ đă có những Tr/Tá giữ chức
vụ Không đoàn trưởng, Phi đoàn trưởng, như : Trương thành Tâm, Nguyễn
văn Ức, Trần châu Rết, Dương quang Lễ, Cao quăng Khôi. Hải quân có Tr/Tá Hạm
Trưởng: Nguyễn như Phú, Hoàng Đ. Thanh. Vận nước đă an bài, làm sao biến
đổi được!.
Vững tin ngày mai.
Cách đây hơn mười năm,
tôi gặp lại người bạn đồng khóa từ VN mới đến, anh nửa
đùa nửa thật nói với tôi rằng: “Bây giờ tao mới qua đây, trâu chậm
uống nước đục…” Tôi không nghĩ như vậy, đây là xứ sở
của cơ hội, hôm nào c̣n thấy xe cộ chạy tấp nập ngày đêm trên xa lộ,
các dinh thự c̣n mọc lên, th́ mọi đón mời vẫn c̣n đó… Nhưng không may,
chúng ta qua sau nầy… sau bao năm trong ngục tù Cọng sản, sức khỏe bị
suy giảm, lại thêm tuổi đời chồng chất, không có được nhiều
chọn lựa. Nhưng may mắn thay là chúng ta có thế hệ con cháu. Người Việt
vốn thông minh, cần cù, nhẫn nại, chăm chỉ; đă có bao gương thành công,
danh vọng hiển hách trong mọi lănh vực ở khắp năm châu bốn bể của
thế hệ trẻ. Nhà nào cũng có con em tốt nghiệp Đại học.
Ước
mong một ngày không xa, khi không c̣n chế độ cọng sản, những con em thế hệ
trẻ trở về xây dựng lại quê hương xứ sở trong tự do, ấm no,
thanh b́nh và thịnh vượng. Hăy vững tin ngày ấy sẽ đến.
Mùa Xuân Cali.
2004
Nguyễn văn An
|
Subject: |
Những kỷ niệm dzui thời chinh chiến |
|
Author: |
Cali |
|
Dị đoan.
Thường thường
bay những chuyến liên lạc, chở khách, đi phép về Sài G̣n ít khi tới phiên tôi ! Vậy
mà hôm nay, một ngày đẹp trời, lại được giao cho cái phi vụ thoải
mái này…ḷng bỗng thấy vui vui. Nh́n lên bảng phi lệnh, thấy giờ cất cánh
ghi là 13 giờ đúng.Gặp số 13 tôi chẳng có cảm t́nh ǵ nhưng được về
thăm dzợ… nên không mấy care. Sau khi chiếc tàu số 018 của phi đạo
cho bị chảy dầu, tôi liên lạc với họ để xin chiếc khác, phi đạo
liền đổi cho chiếc phi cơ khả dụng mang số 013.Trời đất, tự
nhiên thêm một số 13 nữa nhảy vô cái phi dzụ này th́ bắt đầu nhột rồi
à nghen ! Năn nỉ măi họ vẫn nói là không có chiếc nào khá hơn...Thôi th́ đành chịu
vậy…Nh́n số 013 chần dần ở đuôi, không khỏi thấy chột dạ!
12 giờ 45, hành khách bắt đầu lên tàu. Sau khi mọi người an vị, anh cơ
phi cho hay tổng số người trên tàu là 13 người, nghe báo cáo mà tôi muốn xỉu. Không
biết ngày này là ngày ǵ mà gặp toàn số 13 không dzậy nè trời ! Coi lại danh sách th́
đáng lẽ có mười bốn người nhưng ông thiếu úy quân nhu đi công tác SG
giờ chót bị đau bụng không đi được cho nên chỉ c̣n mười ba người
thôi Tôi rủa thầm cha này ăn bậy bạ cái ǵ để đau bụng hay số chả
sống thọ mới xui khiến như vậy! Mặt mày hành khách và phi hành đoàn không được
dzui, nhưng hỏi có ai bỏ chổ không th́ ngồi im re, quay mặt chổ khác làm bộ
như không nghe thấy…thật chán mớ đời ! Không lẽ tôi là trưởng phi
cơ mà lạnh cẳng bỏ chổ ! Thường ngày, hành khách xin đi nhiều hơn
chổ ngồi, từ chối không hết. Thế mà hôm nay đích tôi phải thất thểu
vào hậu trạm kiếm thêm ‘khứa’ và năn nỉ goài chẳng ma nào thèm đi… Hay
đây là điềm xấu? Nghĩ tới điều này làm tôi muốn bịnh luôn dzậy
đó… Hàng ngày xông pha trận mạc, đạn thù tua tủa mà không sợ, bây giờ
bụng đánh lô tô trước mấy con số 13 mắc dịch này…hèn ơi là hèn !!! Bần
cùng sanh đạo tặc.Cho đi người không thèm lên, năn nỉ người không thèm
xuống nên tôi đổ ĺ, kệ mẹ cái số 13 xúi quảy này, chơi luôn… cho tới
luôn bác tài ơi. Thế là con tàu mang số 013, cất cánh lúc 13 giờ, chở đúng 13 hành
khách nhẹ nhàng rời Sóc Trăng nắng cháy để về Sài G̣n hoa lệ. Khi bay qua Cai
Lậy, địa danh nổi tiếng có nhiều SA7, tôi để ư kỷ khu rừng dừa
bát ngát dưới kia,kẻo rủi tên VC nào buồn buồn chơi một qủa tầm
nhiệt th́ chết cả đám… Rồi phi cơ cũng đáp an toàn, êm ái và đúng
giờ ở TSN.Mọi người thơ thới hân hoan xuống tàu.Như vậy là tôi đă
dẵm nát cái huyền thọai của số 13 nên từ đó về sau tôi không c̣n ngán con số
13 nữa và coi nó như ne… pas, kể cả « thứ sáu 13 » mà nhiều người vừa
nghe là đă nhợn, né xa !.
Sinh ngữ.
Trong thời chiến tranh
VN, bất cứ quân nhân nào xuất ngoại, thường là đi Hoa kỳ đều phải
qua một lớp huấn luyện sinh ngữ tại trường sinh ngữ Quân đội. Riêng
Không quân th́ có khóa huấn luyện nói tiếng Anh cho các quân nhân cuả ḿnh chuẩn bị du
học Hoa Kỳ tại trung tâm huấn luyện Nha Trang. Cũng như mọi người,
hằng ngày tôi thường vào lớp ê… a… how are you? I am sick! I am fine, you are very nice,
bye-bye …trong lúc chờ đợi du học. Thời gian trôi mau...Rồi cũng đến
lượt tôi sửa soạn lên đường theo học khoá hoa tiêu trực thăng tại
Hoa Kỳ. Bọn chúng tôi bốn thiếu úy trẻ trung dzui dzẻ, mặt mày rạng rỡ,gọn
gàng trong bộ quân phục Không quân màu xanh, hănh diện bước lên chiếc Boeing 747 của
hăng hàng không Pan Am lên đường du ngoạn…Mỹ quốc. Đây là lần đầu
tiên xuất ngoại, được trang bị một vốn liếng tiếng Anh vừa
đủ để có thể nghe, trả lời và hỏi những câu thông thường, nên
trong ḷng ngổn ngang những lo âu và náo nức v́ những sự mới lạ ở xứ
người. Mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ biết hay nh́n thấy! Giữa
đám mù, dĩ nhiên thằng chột làm dzua.Trong bọn chúng tôi có th/uư T có lẽ tiếng Anh
khá nhất v́ khi nói hắn uốn giọng lên xuống rất điệu nghệ. Chúng tôi
nghĩ hắn hơn ḿnh về mồm mép nên T nghiễm nhiên trở thành leader của toán trong
chuyến đi này. Sau khi phi cơ đă lên đến cao độ ấn định, th́
các nàng flight attendant xinh xắn tươi cười đến từng người hỏi
xem hành khách muốn uống ǵ th́ em cho…free. Chúng tôi ngồi hàng ngang bốn đứa
mà T được ưu tiên ngồi ngoài để đại diện chọn món ăn, thức
uống cho mấy thằng cà lăm chúng tôi. Một nàng trẻ đẹp có đôi môi nũng
nịu, đến hỏi T: coffee, tea or milk sir? Ba đứa chúng tôi không ai bảo ai mà tự
động sửa lại thế ngồi ngay ngắn và cố vễnh tai để nghe xem
ông leader lanh lợi của ḿnh chọn cái ǵ. T bèn uống lưỡi chu miệng phán “milk
please” thế là hai thằng tôi nhanh nhẩu bắt chước T cũng “miêu pờ
li”. Riêng thằng D ngoan cố chê milk nhạt như nước ốc mà uống mẹ
ǵ nên hắn dơng dạt nói : “Coffee please”. Sau khi cà phê và sữa đă được
tiêu thụ hết ráo và tất cả ly tách đă được cô flight attendant dọn sạch
sẽ, tôi thấy thằng T đứng dậy đi nhanh về phía sau một hồi lâu mới
trở lại.Thằng D th́ ngồi ngủ gà ngủ gật, c̣n hai đứa tôi chụm đầu
vào tán láo và thán phục thằng T mới đó mà đă ṃ ra sau tán phét với mấy em rồi,
thằng này sinh ngữ giỏi thật ! Bỗng tôi thấy chột bụng phải đứng
dậy đi toilet. Xong xuôi, đang thơ thới hân hoan đi về chổ th́ thấy thằng
P tất tả chạy ngược chiều, tay bợ lưng quần, mặt mày nghiêm trọng…Thôi
chết mẹ rồi, bụng dạ mấy thằng Mít chưa quen với sữa tươi
của Mỹ nên bị Tào Tháo rượt cho chừa cái tật “miêu pờ li”.Thằng
T miệng th́ cứng nhưng bụng th́ mềm nên bị Tào Tháo rượt trước chứ
chữ nghiă mẹ ǵ mà đi ghẹo gái! Chỉ có thằng D là sướng nhất, sau khi
chê cà phê Mẽo dỡ ẹt, hắn đánh một giấc ngon lành, chỉ tội cho hai thằng
tôi thay phiên nhau chạy toé khói, chẳng ngủ nghê ǵ được, cả ông leader cũng
dzậy, lăng xăng suốt buổi mới êm…trông rất thểu năo !
Đó là
chiện trên mây, bây giờ đến chiện dưới đất. Sau một hai ngày làm
quen với LackLand Air force Base, bọn tôi khám phá ra một PX bán đồ như Sears ở trong
căn cứ này.Thế là chúng tôi nhào dzô đi dạo khắp nơi, tới một quầy
bán đồng hồ chưng bày hàng hàng lớp lớp đồng hồ đủ loại,
đủ kiểu, lấp lánh, lộng lẩy …nh́n phát mê. Thằng T đ̣i cô bán hàng cho
xem cái đồng hồ Rolex trông rất gồ ghề. Chúng tôi xúm vào ngắm nghiá, trầm
trồ quan sát một lúc mà chẳng thấy giá cả ǵ hết nên xúi T leader hỏi xem họ
bán thế nào.Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn và chờ đợi hắn biểu diễn
tiếng Anh.Trước sự hối thúc của bạn bè, T bèn nghiêm mặt, sửa mồm
sửa miệng rồi nh́n thẳng vào cô Mỹ bán hàng lên giọng hỏi: “bao nhiêu”?
Ôi cha mẹ ơi, hắn hỏi “how much” bằng tiếng Việt giời ạ,
mà c̣n lên giọng theo kiểu Mỹ nữa mới chết mẹ chứ!!! Cô bán hàng ú ớ
thấy rơ. Chúng tôi ḅ ra cười trên tủ kiếng làm cô ta chẳng hiểu mô tê chi cả!
C̣n T leader th́ mặt đỏ rần v́ biết ḿnh líu lưỡi nói lộn nên đổ
quạo nói : « C… lộn chút làm ǵ cười dữ vậy ? » Nộn ǵ mà nộn ác dzậy
cha ? Thằng P chọc.
Rồi weekend cũng đến mau. Chúng tôi rủ nhau ra một
restaurant ngoài phố. Thấy mấy tên Mít lạ mặt bước vào, cô waitress chạy ra
tươi cười chào đón vui vẻ rồi thân mật dẫn chúng tôi vào một bàn vuông
gần cửa sổ sáng sủa. Trên bàn trống trơn chỉ có mấy lọ tiêu muối,
hộp giấy napkin và chai ketch-up. Chúng tôi bảo nhau là phải xin cái menu mới biết
món ǵ mà order chứ trên tường treo dán đủ thứ lạ mắt biết đâu mà
rờ… và đề nghị T hỏi xin cô bồi cái menu.V́ c̣n quê cái vụ “bao nhiêu”
hai ngày trước nên hắn bèn từ chối và giọng hờn dỗi thấy rơ: “mẹ,
tụi bây cười ông, bây giờ có giỏi th́ lo lấy đi, ông đếch mượn”.biết
hắn c̣n giận nên thằng D hăng hái nói để nó xin cái menu cho. Cô waitress tay cầm
cuốn sổ nhỏ cười cầu tài đến bên bàn hỏi chúng tôi đă sẵn sàng
để order chưa? Cả bọn chúng tôi nh́n về phía vị anh hùng D mong đợi… D
nhà ta nh́n cô bồi, cười cầu tài rồi phán: “can I borrow the menu ?”.Tất cả
các đấng Mít hiện diện trong bàn đều lấy làm hài ḷng v́ thằng bạn ḿnh
nói tiếng Anh đúng văn phạm quá chời, diễn dịch ra tiếng Việt ḿnh là
“ tôi có thể mượn cái thực đơn được không?” như vậy
là quá đúng và lịch sự ra phết rồi c̣n ǵ nữa. Lần này th́ chắc như bắp
không c̣n bị tổ trác nữa rồi.Tất cả chúng tôi yên chí là cô ta sẽ nhanh nhẩu
trả lời yes… yes, of course lia lịa. Nhưng không… cô bồi bàn thối lui một
bước, đứng ngây người ra mấy giây, trố mắt có vẽ ngạc nhiên
rồi vừa cười gượng gạo vừa tḥ tay vào túi móc ra một mớ tiền
và hỏi chúng tôi « muốn mượn bao nhiêu » ? Thôi, chết mẹ rồi, thằng D dân
học trường Tây nên phát âm tiếng “mi niu” thành ra tiếng “mơ ń”
làm cô bồi nghe không ra tưởng là hắn mượn tiền th́ có độn thổ không
cơ chứ!!! (Waitress gần nửa thế kỷ trước th́ hiền và chất phác chứ
thời vệ tinh nguyên tử bây giờ th́ không những không cho c̣n bị chửi là khác!) Ngượng
quá, chúng tôi vội xua tay lia lia, miệng say no… no tiá lia, lấy tay vẽ một cái h́nh
vuông tổ chảng trên không rồi đồng loạt la lên « mi niu, mơ ń ». Bây giờ
th́ cô bồi bàn tốt bụng nhưng tối dạ mới hiểu ư của a few good gentlemen
ngọng ngịu.Thế là cả đám được một dịp cười dzui dzẻ.
Vài
tuần sau, ở ngoài căn cứ lackland có một cái hội chợ (fair).Thiên hạ tới
lui tấp nập.Bọn tôi cũng hăng hái tham gia nhưng sau đó bị lạc tứ
tung mỗi đứa mỗi ngă. Chen lấn loanh quanh trên mấy đường phố một
lúc, tôi đến trước một hàng bán ice cream có nhiều flavour, màu sắc sặc sỡ.Sắp
hàng để mua, tôi thấy cô gái đứng trước vừa mua một cone có mấy cục
kem khác màu chồng lên nhau trông hấp dẫn quá trời hà, nhưng chịu không biết làm
sao mà gọi. Đang phân vân th́ bị bà bán kem hỏi muốn ǵ, quưnh quá tôi chỉ ngay vào cây
kem của cô vừa bước đi rồi nói “me too” và để chắc ăn
tôi bồi thêm “the same”, thế là bà ta nhẩn nha làm cho tôi “hai” cone giống
hệt nhau. Tôi chới với nhưng không biết cải chính ra sao nên đành lấy tiền
trả hai cây kem rồi ôm hận tách đám đông đi ra.Thấy một thằng nhỏ
đứng lơ ngơ gần đó, tôi đưa cho hắn một cây.Thằng nhỏ ngạc
nhiên v́ sự hào phóng bất đắc dĩ của tôi nên thank you… thank you lia lịa, làm
tôi cảm thấy sự bực dọc bay đi cái dzù. Vừa đi, vừa le lưỡi
liếm quanh cây ice cream theo đúng cung cách Mỹ trông rất ư là tục tĩu, nhưng
nếu không làm thế th́ kem sẽ nhểu tùm lum dưới sức nóng như thiêu của
mùa hè Texas…Chợt thấy thằng P đàng xa, mừng quá, với cái miệng tèm lem ice
cream, tôi nhảy tưng tưng,tay ngoắc,miệng hét : ê Phúc, ê phúc…làm mấy bà Mỹ
có con nhỏ vội kéo con đi chổ khác, c̣n mấy cô trẻ th́ cười khúc khích. Th́
ra họ tưởng tôi điên hay maniac mà tự nhiên nhảy đong đỏng la lên f..ck,
f..ck giửa chợ!!! Thằng Phúc bây giờ nghe đâu đang định cư ở Canada
và đổi tên là Philip cho có vẽ Hoàng gia chứ tên Phúc mà bị Tây hay Mẽo gọi th́ thế
nào cũng có mấy mụ đầm sồn sồn chạy theo xin số điện thoại
cho mà coi !
Lúc đầu tiếng Anh bết bát như vậy nhưng chỉ sau vài tháng
ở Lackland, ngày thi măn khóa để chuyển qua trường khác,bọn chúng tôi đứa
nào cũng dư điểm để đi trường bay. Riêng tôi c̣n được sự
nhờ cậy của ông sĩ quan lục quân Thái Lan. Ông thiếu tá người Thái thú nhận
là không nghe giỏi tiếng Anh nên nhờ tôi lúc ngồi thi kế bên ông nhớ đá chân cho
ông để ông đánh theo câu a.b.c.d. Thấy ông có vẽ thành khẩn và lo lắng v́ nếu
rớt sẽ bị ở lại nên tôi cũng động ḷng giúp ông bạn xứ Xiêm La một
phen, đá nhè nhẹ vào giày nhau th́ ai mà biết được? Hể câu trả lời là “a”
th́ đá một cái, câu b th́ hai cái…Thế là ông thiếu tá đậu ngon lành. Chiều
ngày hôm sau, ổng bèn nấu cơm Thái mời tôi ăn.. Đang ăn ngon lành th́ ổng nói
ổng có nhạc VN hay lắm để vặn cho tôi nghe. Mừng v́ lâu ngày xa quê hương
nhớ mẹ già, thèm nước mắm và nhạc vàng nên tôi hối ổng mở đi…tiếng
đờn dạo đầu nghe sao quá chói tai nhưng khi ca sĩ vừa cất tiếng hát
là khắp người tôi nổi đầy gai ốc.Nhạc nghe the thé, sắt máu quá trời
! Th́ ra ông đang cho tôi nghe nhạc miền Bắc của CSVN!!! Tôi yêu cầu ổng tắt
đi v́ không phải nhạc vàng êm dịu trử t́nh của miền Nam chúng tôi. Ổng cho
tôi biết nhạc này là do cô bồ người Việt của ông ở bên Thái tặng và ông
c̣n hănh diện nói rằng nhiều sĩ quan cao cấp của Thái đều có bạn gái là
người VN ở thái. Điều này cho thấy CSVN đă có mỹ nhân kế nằm đầy
dẫy trong chánh quyền và quân đội Thái.
Cạo gió. Hôm nay được
nghỉ.Từ quán cà phê trong căn cứ, tôi tà tà thả bộ về cư xá, đi ngang qua
mấy bà làm pḥng ngồi giặt đồ dưới mái hiên để về pḥng. Một
bà tuổi chừng ba mươi, tuy làm việc lao động nhưng có dáng người mũm
mĩm, khuôn mặt tươi tắn,dễ nh́n,với chiếc áo bà ba nâu trên người
làm nỗi bật chiếc cổ đầy đặn, trắng ngần.Thấy tôi, bà nhăn
mặt hỏi: “Cái áo bay của anh sao mà hôi dữ thần dậy? c̣n hơn mùi chuột
chết dậy đó!”.Trong lúc mấy bà khác cúi đầu cười rúc rích, làm tôi hơi
ngượng nhưng cũng từ tốn trả lời : “Tại ngày hôm qua chở xác
mấy ông lính BB, nước từ xác chết dính vô áo tụi tôi nên mới hôi dữ vậy
đó, Gịi ḅ lên người nữa, coi chừng trong túi có mấy con gịi đó bà ơi!”
Nghe gịi, mấy bà hét lên, liệng mấy cái áo đang cầm ra nền cement… Mấy
hôm sau…Một đêm, tôi bỗng ngă bịnh, người hâm hấp sốt, ráng ngồi
dậy uống thuốc rồi lại nằm bẹp xuống giường lúc mê, lúc tỉnh
cho tới sáng. Đến trưa, chị làm pḥng có cái cổ trắng ngần gơ cửa bước
vào giao đồ giặt ủi. Thấy tôi nằm trên giường mồ hôi rịn trên tráng
dù trên người chỉ bận có bộ pyjamas mỏng.Nh́n sắc diện, chị biết
ngay là tôi bị bịnh nên có vẽ ngạc nhiên hỏi dồn dập: “chời ơi
anh bịnh hả, có sao không, mà anh ăn ǵ chưa?” rồi lật đật đi nấu
cho tôi một tô cháo.Một lúc lâu sau, chị mang cháo trở lại. Tôi cám ơn chị nhưng
cháo nóng quá nên chưa ăn được.Chị ngồi xuống bên giường, tay sờ
lên trán, thấy tôi bị nóng chị nói: “mèn đét ơi người anh nóng hổi hà,
để tôi cạo gió cho nghe”.Tôi nói không cần nhưng chị cứ bỏ đi kiếm
lọ dầu cù là và cái muỗng, tôi không biết làm ǵ hơn là nằm chờ. Đang nằm
thiêm thiếp th́ chị nhẹ nhàng trở lại ngồi bên giường như trước
nhưng lần này th́ hơi khác thường là chiếc áo bà ba được mở ra hai
nút và đôi mắt chị nh́n tôi cũng có vẽ ướt át hơn…chị cúi sát trên
người làm tôi tỉnh hẳn v́ mùi thơm da thịt… Dưới ánh sáng lờ mờ
lọt qua khe cửa, ẩn hiện sau cổ áo nâu mở rộng hững hờ là phần
ngực trắng nhễ nhại với những đường nét cong tuyệt mỹ làm
cho đôi mắt lờ đờ mệt mỏi như con gà nuốt dây thun của tôi sáng lên,
linh động lạ thường… Nhưng tôi chỉ nằm im chiêm ngưỡng mà
thôi! Đôi bàn tay quen thói tham lam nay xuội lơ bất động. Con lợn ḷng bị cột
chặt lại v́ những lư do(1). Bị sốt cả đêm,người đă ră rời (2).H́nh
ảnh người vợ ngoan hiền tươi cười trước mặt (3). Ông quan
toà lương tâm nh́n nghiêm khắc (4).Và cái quan trọng nhất đă giúp tôi kềm chế
ḷng ḿnh là khoảng trống của bức tường ngăn cách giữa pḥng tôi và pḥng hai
anh chàng pilot độc thân trời đánh bên kia. B́nh thường giữa đêm khuya thanh vắng,
tiếng ngáy ph́ pḥ nho nhỏ cũng đă nghe rất rỏ. Bây giờ mà lỡ dại ch́u
ư rủi chị la lên từng chặp…th́ hậu quả e khó lường! Tôi chịu không
nổi sự dằn vật giữa tranh chấp lư trí và ái dục nên từ từ xoay người
lại nằm sấp. Thà đưa cái lưng trần ra cho chị cạo gió c̣n hơn nằm
ngửa tênh hênh rủi chị chịu hổng nỗi, cạo nhầm chổ khác th́ …ối
giời ơi chết con ! Mấy chàng pilot trời đánh của 225 bên kia mà biết được
th́ tôi chỉ có nước độn thổ ! Uả, mà sao tôi lại lo xa dzậy cà, biết
đâu mấy chả đă “được” cạo trước rồi. Chứ đâu
như tôi, mỡ đưa tới miệng mèo mà mèo lại chê, thật là “ngu” và “cù
lần” hết chổ nói! Sau khi được chị cạo gió, tôi cảm thấy
dễ chịu hơn nhưng đồng thời cũng cảm thấy luyến tiếc như
vừa đánh mất một cái ǵ! nhất là khi thấy gương mặt chị đỏ
hồng xen chút hờn dỗi và bẽn lẽn cài lại hai nút áo hớ hênh... Đến
xế trưa, đang nằm lơ mơ th́ điện thoại từ đồn Quân cảnh
báo là có một cô làm cho Air VN ghé xuống đây và muốn tôi ra đón. Tôi nói với anh QC
là tôi đang bịnh và nhờ anh chở dùm bà xă tôi. Vợ tôi vừa từ SG xuống, có
mang cho tôi một chai rượu và mấy hộp bánh. Bả ưa đột kích theo kiểu
thanh tra bất tử này lắm, nhiều khi xuống không báo trưóc, nếu không gặp tôi
là bả lại theo tàu dông về SG. Bả hỏi tôi là ai đă cạo gió cho tôi, tôi nói đại
là bà già “quấn chiếc khăn rằng” ngồi giặt đồ ngoài kia cạo
cho tôi đó.Tưởng nói cho qua chuyện, ai ngờ bà dzợ tôi liền lấy một hộp
bánh đem ra biếu và cám ơn bà già. Bà già không nhận và nói là bả đâu có cạo, chính
cô Ba này cạo đó.Trời ơi bà già trầu này giết tôi rồi! Thế là tôi bị dzợ
nghi ngờ. Tôi phải nói cứng là “bà già đó chứ ai mà biết cạo, tại bả
không muốn nhận quà và muốn chọc em, bả mới nói dzậy, không tin ra hỏi lại
coi” - Lá bài tố của tôi đă có hiệu nghiệm. Viên thuốc đắng, tô cháo
nóng cay xè và bàn tay ve vuốt tuyệt vời của chị Ba đă có mănh lực d́m cơn bịnh
xuống, nâng tôi đứng đậy để lảo đảo tiễn vợ về lại
SG. Gió chiều tung bay tà áo xanh của bà xă quyện vào chân tôi quyến luyến, và thổi
nghiêng nghiêng chiếc nón lá bạc màu của chị ba đang thấp thoáng đứng phơi
đồ xa xa… Trước khi lên phi cơ, vợ tôi với giọng gái Hà Nội ngày
xưa, ngọt ngào hăm dọa: “anh mà lộn xộn là chết… với em đấy
nhé”! Khi tôi trở về lại pḥng th́ h́nh bóng chị Ba đă không c̣n thấp thoáng ở
cuối dăy hàng hiên… Dù nay đă quá muộn màng nhưng tôi vẫn xin chân thành cám ơn
sự săn sóc của chị Ba và đồng thời tạ lỗi v́ đă không làm vừa
ḷng chị ngày ấy!
Cali
|
|