Subject: |
Tưỡng Niệm Vị Anh Hùng Khu Trục: Th/Tá Nguyễn Gia Tập |
|
Author: |
khongquan2 |
|
Buổi Phong Thần…
(Nhân ngày Quốc-Hận! Xin thắp một nén nhang ḷng, cúi đầu tưởng-niệm
đến những chiến-sỹ anh-hùng của QLVNCH đă hy-sinh cho lư-tưởng tự-do
của dân-tộc, và xin nghiêng ḿnh chiêm-ngưỡng cái chết bi-tráng của Thiếu-Tá KQ: Nguyễn Gia-Tập, Phi-công khu-trục A1. Trong
giây phút vô-cùng tuyệt-vọng của đất nước, anh đă hiên-ngang mỉm cười,
lấy máu ḿnh ḥa cùng với những ḍng máu bất-khuất khác để
gỉải oan, và rửa hờn cho Quân-Lực oai-hùng của miền Nam Việt Nam. Tổ-Quốc
tri-ân các anh!)
Trần Ngọc Nguyên Vũ
*****
Tôi vẫn nợ anh một lời trăn-trối
Buổi chia-ly cạnh vũng máu bên đường
Anh kiêu-bạc vẫy tay chào vĩnh-biệt
Nhắn nhủ ngày về giải-thoát quê-hương.
Anh lính chiến những anh-hùng bất-tử
Đă bao lần nối gót bước tiền-nhân
Cơn quốc biến hy-sinh cho đại-cuộc
Để ngàn sau chiêm-ngưỡng buổi phong thần. (*)
Nơi anh nghỉ có Hồn Thiêng Sông Núi
Cùng cỏ cây ru măi khúc t́nh-ca
Ôi thương qúa bản t́nh-ca dân-tộc
Mấy mùa đau theo vận nước nhạt-nḥa.
Trong hiu-quạnh ngậm-ngùi cho thế-sự
Trên hoang-tàn đổ nát cuộc tang-thương
Đêm buông xuống vành khăn sô quằn-quại
Nấm mồ hoang ai nhỏ lệ canh trường.
Anh lính chiến tên anh c̣n vọng măi
Trên từng trang quân-sử thật bi-hùng
Ḍng huyết-sử tuôn trào như thác đổ
Khóc anh-hùng phiêu-dạt cơi mông-lung.
Anh lính chiến nghe chăng lời tâm-nguyện
Rồi một ngày khi đất nước an-ḥa
Xin được đến qùy chân bên mộ-chí
Lễ giải oan hồn tử-sỹ thăng-hoa.
Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Tháng Tư oan-nghiệt!)
Chú-Thích: (*) Ngày 30/4/1975, trong khi tân T/T Dương Văn-Minh lo sửa-soạn tiếp đón đoàn quân rừng
rú của Cộng-Sản tràn vào dinh Độc-Lập để tước quyền T/T của
ông, th́ tại Bộ Tư-Lệnh Không-Quân trong Tân-Sơn-Nhất, Thiếu
Tá Nguyễn Gia-Tập, Phi-Công Khu-Trục A1 cũng đang sửa-sọan cho buổi
lễ phong thần của ḿnh. Anh thức dậy rất sớm, tắm gội sạch sẽ,
nói lời từ-biệt với gia-đ́nh, rồi mặc bộ quân-phục Đại-Lễ
của KQ, bộ đồ biểu-tượng cho lời thề : “Tổ-Quôc
Danh-Dự và Trách-Nhiệm” của người lính chiến, đứng nghiêm-trang
truớc tiền-đ́nh BTL, giơ tay chào lá cờ vàng ba sọc đỏ đang phần-phật
tung bay trong gió, như để tiễn đưa người tráng-sỹ vượt
ḍng sông định-mệnh…. Anh b́nh-tĩnh giơ khẩu súng kề bên
màng tang rồi bóp c̣. Thân xác anh đổ xuống như một cây
thông cổ-thụ bị trốc gốc trước cơn cuồng-nộ tiếc
thương của đất trời. Ḍng máu kiêu-hùng của người trai
thời loạn tuôn trào xối-xả, ḥa cùng với những ḍng máu bất-khuất của
Nguyễn-Khoa-Nam, Lê Văn-Hưng, Phạm Văn-Phú, Trần Văn-Hai, Lê
Nguyên-Vỹ, Hồ-Ngọc-Cẩn, Phi-Hổ Nguyễn-Mạnh-Dũng, và những Chiến-Sỹ Anh-Hùng Vô-Danh khác để rửa
sạnh những nỗi oan-khuất, oán-hờn cho một quân-lực oai-hùng bị
bức tử.
Trên bầu trời vần-vũ đám mây tang, văng-vẳng
những lời thơ cổ tấu lên như một bi-khúc phong thần:
Hồn tử-sỹ gió ù-ù thổi
Mặt chinh-phu trăng dơi dơi
soi
Chinh-phu tử-sỹ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn…
Chung quanh anh, giờ này không c̣n ai ở lại để vuốt mắt cho người
anh-hùng một ḷng trung-kiên với tổ-quốc... Nhưng hồn anh đă thoát khỏi xác thân phàm, theo luồng âm-phong cuồn-cuộn
nổi lên đưa anh về cho kịp buổi lễ phong thần nơi
cơi vĩnh-hằng cao diệu-vợi.
|
(Danh sách ghi trong Tập ‘Skyraider và Không Quân VNCH, được các thân hữu bổ xung,
riêng trường hợp hy sinh của các phi công thuộc Phi đoàn 520 đă được
NT Nguyễn Thiện Ân ghi lại.. (phần in chữ nghiêng)
Danh sách được xếp theo thứ tự ABC của tên.
- Thiếu tá Nguyễn Thế Anh : tử nạn trên một A-1G (bay chung với
Th/tá Nguyễn văn Long) bay thử phi cơ từ Tân Sơn Nhất về Biên Ḥa, phi cơ
bị hỏng thắng, rời phi đạo và lật úp xuống vũng nước, ngập
x́nh.. Phi công chết vị ngộp. - Chuẩn úy Phạm Gia Anh (PĐ 514), hy sinh trong một
phi vụ tiền oanh kích (P/S) ở Cà Mâụ Anh bay chiếc số 2, phi tuần trưởng
là Trung Úy Quách Thanh Dần. Ch/u Anh bị trùng đạn xuyên cổ khi thả napalm. - Thiếu
úy Dương Ngọc Bích (PĐ 520), hy sinh trong khi bay yểm trợ hành quân tại Thác lác (tháng
2-1967), trong phi vu bay đêm này anh bị ‘vertigo’, phi cơ đâm thẳng xuống ruộng,
tạo một lỗ sâu chừng 8m. - Thiếu úy Nguyễn Huy Bổng : PĐ 524 - Trung
úy Cấn Thanh Cát : PĐ 530 - Thiếu tá Trần Sĩ Công hy sinh tại Phan Rang ngày 16 tháng
4,1975 trong phi vụ từ SĐ 3 KQ tăng phái cho chiến trận Phan Rang. - Trung úy Tô Minh
Chánh :PĐ 514 hy sinh năm 1961 tại Hạ Lào - Thiếu úy Nguyễn Đức Châu : PĐ
518 - Đại úy Trần Công Chấn : Chỉ huy trưởng PĐ 518. - Đại úy
Nguyễn Hữu Chẩn, hy sinh tại Đồng Hới (xem các phi vụ Bắc phạt). -
Thiếu úy Cao Minh Dơng : PĐ 516 - (?) Mạc Kính Dung : PĐ 514 - Thiếu úy Nguyễn Hoàng
Dự : PĐ 524 - Thiếu úy Lưu Thanh Điền : PĐ 524 - Trung úy Lê văn Độ
PĐ 530 - Trung úy Bùi Đại Giang, hy sinh tại Hố Ḅ ngày 7 tháng 3 năm 1966 - Thiếu
úy Lê Nguyên Hải : Biệt đội 516 - Thiếu úy trần Như Hoành PĐ 514 - Trung
úy Vũ Khắc Huề PĐ 516 tại Đồng Hới (Xem các Phi vụ Bắc phạt). -
Chuẩn úy (?) Hồng PĐ 514, hy sinh năm 1961 trong một phi vụ oanh kích tại Tân Hiệp
(Định Tường). - Đại úy Cao Bá Hùng PĐ 518 , hy sinh tại Tân Khai ngày 20 tháng
5 năm 1972. - Trung úy Nguyễn Ngọc Hùng PĐ 530, tử nạn tại đồi Chu Pao
ngày 24 tháng 5 năm 1972. - Đại úy Nguyễn Quan Huy PĐ 514, tử nạn tại Bắc
Biên Ḥa 1963, trong khi cố xuyên sương mù để đáp. - Thiếu úy Mai Nguyên Hưng
PĐ 514 tại Bà Rá (Phước Long0 sau phi vụ Bắc phạt. - Thiếu úy Phan Khôi,
Biệt đoàn 83 - Thiếu úy Nguyễn Duy Khoa Khôi, PĐ 520 - Thiếu úy Trần Đăng
Khuê, PĐ 520 - Trung úy Dương Huỳnh Kỳ PĐ 530 hy sinh tại Căn cứ Charlie
6 giờ chiều ngày 12 tháng 4 năm 1972 (vài giờ sau khi Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo TĐ
11 Dù hy sinh). - Chuẩn úy Phạm Hy Kỳ PĐ 514, hy sinh trong phi vụ hành quân (1962) tại
Mộc Hóa (Kiến Tường). - Trung úy Lê văn Lâm, PĐ 518 - Thiếu tá Nguyễn văn
Long PĐ 514 tử nạn chung với Th/tá Nguyễn Thế Anh. - Chuẩn úy Nguyễn Thành
Long (tự Long chà) PĐ514 huy sinh trong phi vụ hành quân (1965) tại B́nh Long. - Đại
úy Nguyễn văn Lớn PĐ 520 (Trưởng Pḥng Hành quân) hy sinh trong phi vụ bay huấn
luyên đêm cho 2 khóa sinh phi tuần phó : Số 2 Trung úy Lê Hữu Quan và số 3 Trung úy Huỳng
Công Đăng : ‘Đêm hôm đó, sau khi cất cánh khoảng 30 phút, được Đài
kiểm soát không lưu thông báo thời tiết xấu, anh dẫn phi tuần trở về
đáp. Lúc này trời bắt đầu đổ mưa, loại mưa rào ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, anh quyết định cho chiếc số 3 đáp trước, nhưng
không may, sau khi chạm bánh, số 3 chăy ra cỏ. Anh bèn dẫn số 2 rời ṿng phi đạo
và chờ cho tạnh mưạ Khoảng 10 phút sau, đài kiểm báo mất liên lạc với
phi tuần của anh. Một trực thăng cấp cứu được lệnh cất
cánh và cuối cùng t́m thấy 2 phi cơ bị crash gần phi trường. Khi t́m thấy, anh
đă tử nạn và vẫn c̣n ngồi trong pḥng láị Chiếc số 2 : Trung úy Quan bị
văng ra ngoài và được cứu sống (Theo KQ Nguyễn Thiện Ân) - Thiếu úy
Cao văn Lủy PĐ 524 - Trung úy Lê kim Luyện PĐ 516 - Trung úy Bảo Minh hy sinh tại
Cà mâu tháng 12 năm 1967, trúng đạn khi thả napalm. - Trung úy Nguyển B́nh Nam PĐ 518,
hy sinh năm 1972 - Thiếu úy Nguyển Thành Nam PĐ 522, tử nạn khi đáp tại Mộc
Hóạ - Đại úy Chế văn Nghĩa Chỉ huy trưởng PĐ 514 - Trung úy Nguyễn
văn Nghĩa, PĐ 518 , hy sinh 1972 - Thiếu úy Nguyễn Vĩnh Ninh PĐ 524 - Trung úy
Nguyễn văn Phú, PĐ 516 - Thiếu tá Trương Phùng, hy sinh trên không phận Saigon 7
giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975. - Đại úy Vơ Thanh Quang, Chỉ huy phó PĐ 518 - Thiếu
úy Nguyễn Nhật Quang PĐ 518 - Thiếu úy Nguyễn Đ́nh Quư Biệt đoàn 83 - Trung
tá Phạm Phú Quốc tại Hà Tĩnh (xem các phi vụ Bắc phạt) - Thiếu tá Nguyễn
Tấn Sĩ PĐ 516 Không đoàn phó KD74/CT ‘Khoảng tháng 4 năm 1968, một buổi
tại Câu lạc bộ Sĩ quan (lúc đó có Tr/tá Nguyễn Huy Ánh, Th/tá Sĩ KĐP, Tr/úy Bùi
Công Uản, Tr/úy Nguyễn Trực và tôi-Nguyễn Thiện Ân-), có tin VC vào gần ṿng đai
phi trường. Th/tá Sĩ t́nh nguyện thi hành phi vụ và gọi Tr/úy Trực cùng bay ở
vị trí số 2 (không có FAC). Khi đến mục tiêu, sau khi số 1 vào thả bom, nhưng
số 2 không thả được v́ không theo kịp nhịp độ vào ṿng bắn của
số 1 nên đă làm drive pass. Lúc thả hết bom, để chỉ mục tiêu cho phi tuân viên
của ḿnh, ông đă dùng đại bác 20 ly để bắn xuống mục tiêu và v́ phi cơ
xuống quá thấp nên bị crash, cày một rănh sâu và dài trên ruộng. Ông đă hy sinh. - Chuẩn
úy Nguyễn Sơn PĐ 520, cất cánh ra cỏ, đụng vào một C-130 đang đậu
ở Phi trường Đà Nẵng. - Thiếu úy Liêu văn Tám PĐ 520 , cất cánh tại
phi đạo Biên Ḥa, vào bánh đáp lúc phi cơ chưa rời khỏi phi đạo..phi cơ
bị crash trên phi đạo với trang bị napalm nên bị nổ cháy (một nhân viên cứu
hỏa của KQ HK đă tử nạn trong lúc cố cứu anh ra khỏi phi cơ). - Trung
úy Nguyễn văn Tám PĐ 520 (tự Tám gồng). Anh có ‘nick name’ là Tám gồng không
phải v́ Anh học vơ Miên, nhưng thật ra mỗi lần phi trường bị VC pháo kich,
anh phải gồng ḿnh lên cho đơ sợ. Trong phi vụ hành quân vào đêm mồng1 rạng
mồng 2 Tết Mậu Thân, sau khi oanh kích tại khu vực G̣ vấp (thuộc ṿng đai phi
trường Tân Sơn Nhất, trở về đáp. Anh bay chiếc số 1 (có Trung úy Nguyễn
văn Trân ngồi ghế phải trên chiếc AD5) trong t́nh trạng nhiên liệu khẩn cấp,
anh đă làm ṿng bay khác : kết quả phi cơ bị crash và cả hai cùng tử nạn. -
Trung úy Phan Thiện Tâm PĐ 514, hy sinh tại Hạ Lào 1961 - Thiếu úy Nguyễn Thế
Tế, tại Đồng Hới trong một phi vụ Bắc phạt (Xem các phi vụ Bắc
phạt) - Thiếu tá Vũ văn Thanh PĐ 518 hy sinh năm 1972 - Thiếu tá Phạm văn
Thặng PĐ 530 hy sinh tại Kontum ngày 26 tháng 5 năm 1972. - Chuẩn úy Trần văn Thiện,
tử nạn trong một phi vụ huấn luyện tại Phú Bài (Huế) năm 1962 - Trung
úy Trần Đ́nh Thiệt PĐ 516 - Chuẩn úy Nguyễn Tấn Thoạt PĐ 520 trong một
phi vụ hành quân đêm. - Thiếu úy Nguyễn Ngọc Thống PĐ 520 - Trung Úy Lâm văn
Thới PĐ 516 - Trung úy Nguyễn văn Trận PĐ 520, Tử nạn cùng với Tr/u
Nguyễn văn Tám (xem trên) - Trung úy Nguyễn văn Trương PĐ 514 - Thiếu úy
Phan Quang Tuấn PĐ 514 - (?) Trịnh Đức Tự PĐ 516, tử nạn tại Nam
Đà Nẵng trong một phi vụ hành quân, đụng với máy bay trinh sát. Phi cơ rơi
tại chân núi Đá đen ở Tây Nam Hội An. - Đại Úy Trần Thế Vinh, PĐ
518, hy sinh tại Quảng Trị ngày 9 tháng 4 năm 1972 sau khi đă bắn hạ 21 chiến
xa của CSBV
Trong phần ‘Các phi công VN đă ra đi trên Skyraider khi bay với tư cách ‘tháp
tùng’..
- Trường hợp của Trung úy Flynn được NT Nguyễn Thiện Ân
bổ túc như sau : Ngày 23 tháng 9 năm 1964, Trung úy George Flynn bay chung với Chuẩn úy Trần
Quốc Tuấn. Trong phi vụ yểm trợ mộ đồn quân bạn ở Rạch giá
vào ban đêm, phi cơ bị bắn cháỵ Tr/u Flynn ra lệnh cho Tuấn nhảy dù trước.
Sau khi nhảy dù Flynn bị VC bắt, c̣n Tuấn cố trốn xa nơi dù đáp xuống,
dùng tay đào lỗ để nấp, anh nghe tiếng nói chuyện của đám VC đang
đi t́m anh, nhưng rất may là chúng không t́m thấy; trong khi đó Đaị úy May (34th TAC)
bay chung với Chuẩn úy Huỳnh Bá Phúc, lại chiếc AD5 nhào xuống yểm trợ th́
cũng bị bắn trúng và crash. Theo Đ/uy May ông đă giao cây rouleau cho Phúc, c̣n ông giữ cây
AR15, sau đó Phúc chạy vào làng và bị VC bắt. Sáng hôm sau Đ/u May và Ch/u Tuấn được
trực thăng rescue và đưa về căn cứ Biên Ḥạ Tr/uy Flynn sau đó chết
trong trại giam VC.. (Không có chi tiết thêm về Ch/u Phúc)
Trần Lư
Author: PhượngT́mHoàng C̣n thiếu rất nhiều tên các
phi công đă tử nạn với chiếc " Thiên Kích " này,tạm nhớ như sau : Tr/U Nguyễn
Duy Vinh PĐ 518 tại chiến trường Cam Bốt năm 1971. Th/U Nguyễn Minh Hoàng
PĐ 514 tại Dầu Tiếng. Th/U Lưu Kim Thanh PĐ 514 Th/U Đỗ Tín người
đầu tiên tử nạn với chiếc ghế " jettision seat " chưa được hoàn
chỉnh,tại BH năm 67 Th/U Đàm Chí Dzũng PĐ 514 tại B́nh Thuỷ năm 67(em
ruột Thiên Ưng 01 ĐTV) Tr/U Nguyễn Văn Ninh PĐ 518 Tr/U Nguyễn Long Đăng
PĐ 518 Tr/U Tăng Tấn Tài PĐ 518 Th/U Bùi Văn Tài PĐ 524 Th/U Đinh Quang Cứ
PĐ 524 Tr/U Nguyễn Điền Phong PĐ 516 năm Mậu Thân 68 tại Huế. Đ/U
Nguyễn Du PĐ 516 có biệt danh " VC killer ". Đ/U Vơ Văn Trương Phi Đoàn Phó PĐ
514 Th/U Hà Xường tử nạn phi vụ bay đêm tại Hurlburt Field, Florida. Xin sửa
lại các tên sau đây cho đúng: Th/U VƠ Nhật Quang, không phải họ Nguyễn. Th/U
CAO Đức Châu, không phải họ Nguyễn. Đ/U NGUYỄN Cao Hùng , không phải họ
Cạo
Author: nthai Trong danh sách "Ra đi cùng Skyraider" này tôi cũng thấy
thiếu hai người bạn mà khi xưa chúng tôi cùng học chung khóa T-28 tại, Keesler, MI.
Sau này cả hai anh đều bay A-1 ở PĐ-518 và đă hy sinh . Xin được bổ
túc thêm: 1 - Th/u Nguyễn Quang Hùng (Ở đường Lê Văn Duyệt, Ḥa Hưng) tử
nạn khoảng tháng 6/72 khi đáp xuống Biên Ḥa 2 - Th/u Trương Ḥa Thành bị bắn
rơi ở G̣ Dầu Hạ khoảng tháng 3/73
NThai
Author: herky482 Tôi đọc trong danh sách này thấy có thiếu
1 người anh quen biết từ hồi nhỏ: Th/u Nguyễn Đạo Lư . Tại căn
cứ KQ B́nh-Thủy có tên con đường Nguyễn-Đạo-Lư. V́ không thấy tên và nhớ
rất ít về anh Lư lúc hy-sinh nên cách đây 1 giờ tôi đă gọi phone cho chị Lư hiện
đang sinh sống tại Seatle. Chị cho biết anh Lư hy-sinh trong 1 phi-vụ tại Ba-Xuyên
đêm 1 tháng 6 năm 1965. Anh đi KQ khoá 61. Đường Nguyễn Đạo Lư được
đặt tên tại B́nh-Thủy lư do là anh đang ở PĐ 514 tại biên Hoà sắp sửa
chính thức thuyên chuyễn về Phi-đoàn 520 tại Cần-Thơ lúc đang thi hành phi-vụ.
Anh làm crash vào thửa ruộng phi-cơ c̣n nguyên vẹn không bốc cháy, trực thăng thả
hoả châu không t́m thấy xác phi-cơ lư do là du kích quân trét bùn trên toàn thân phi-cơ, đến
sáng ngày hôm sau khi trực thăng bay thấp thấy được cái đuôi của chiếc
AD-6 nên toán cấp cứu đă đến được xác phi-cơ , mở Canopy kéo xác anh
Lư ra. Các Bác-sỹ sau này cho biết anh Lư chết khoàng 5 giờ sáng. Nếu Trực-thăng
phát hiện ra chiếc AD-6 hồi tối th́ anh Lư chắc đă được cứu sống..?.Lúc
anh Lư hy-sinh chị Lư đang có thai đứa con gái đầu được 5 tháng. Hiện
nay cháu gái Nguyễn Thị Quỳnh-Dao đang sinh sống tại Nam Cali. Cháu mới sang Mỹ
được hai năm nay. PQK Author: HvT.514 Thưa anh TRAN LY . Những
thời gian để nhớ lại và cập nhật về danh sách của những anh hùng
HoaTiêu Khu Trục of KLVNCH đă hy sinh trên nhiều giai đoạn và khắp nơi trên các chiến
trường của cuộc chiến trước 75 ! thật là 01 việc làm đáng quư , nhưng
thưa với anh , em có xem qua danh sách của anh Pham đ́nh Khuông đă ghi về khóa svsq hoa tiêu
khóa 65 ( tổng cộng 74 hoa tiêu ,...đă hy sinh mất 25 rồi ) trong đó PĐ 514 là có con
số hoa tiêu hy sinh nhiêù nhất về Skyraider . Vấn đề nầy em nhờ anh BUU DAN
bổ túc dùm , và trong đó cũng có người anh của em là cố Đại úy Hùynh văn
Tưởng đă hy sinh vào cuối mùa đông 74 trên chiến trường Đức Ḥa Đức
Huệ , chắc anh c̣n nhớ .....
Author: MTMind Kính quí Bác,
Cháu xin phép được hỏi/ bổ sung thêm vào list bác Đặng Minh Triết
(chạy chiếc Vespa Super xanh da trời nhạt, nhà đối diện nhà Thiếu tá Trương
Phùng trong cư xá Huỳnh Hữu Bạc, Biên Hoà) cũng ra đi cùng A1 nhưng cháu không nhớ
rơ bác Triết thuộc phi đoàn 518 hay 514. Mặc dù đă mấy chục năm, nhưng
h́nh ảnh và cảm giác vẫn in đậm trong trí nhớ....vành khăn tang trên đôi mắt
thơ dại của mấy đứa bạn con của bác Đoàn Toại (chạy chiếc
pick up xanh đậm) nhà ngay đầu ngơ có bụi tre cao. Rồi chẳng bao lâu đến
nhà bác Triết, rồi chẳng bao lâu lại đứng trước nhà nh́n vào bác Vĩnh Anh
bị SA7 nằm trên giường, chân tay bị cháy loang lỗ từng mảng, (đến
bây giờ ăn lạp xưỡng vẫn bị liên tưởng đến). Không ngờ
bác Trương Phùng ( chạy chiếc Pergoet trắng) cũng đă găy cánh giờ 25. Khu cư
xá chỉ có khoảng 10 gia đ́nh mà hết 5 bị rớt ( 3 chết, 2 nhảy dù).
Đa tạ, MTMind
Subject: Phi vụ Bắc phạt ngày 28 tháng 2 năm 1965
Author: TRANLY Phi vụ Bắc phạt ngày 28 tháng 2 năm
1965 (nh́n từ Đài Kiểm Báo Panama)
Mục tiêu của Phi vụ này là những doanh trại của CSBV bên ngoài Đồng Hới,
cách Đà Nẵng khoảng 1 giờ 15 phút baỵ Phi vụ được đặt dưới
sự hướng dẫn của Thiếu tá Dương thiệu Hùng, Tư lệnh Không đoàn
41, do có sự tham dự cùa các phi cơ thuộc Không đoàn 62 (Pleiku), nên Tư lệnh KĐ
62, Trung tá Trần văn Minh cũng đến Đà nẵng để theo dơi cuộc hành quân.
Phi vụ bắt đầu lúc 2 giờ chiều ngày 28 tháng 2 với sự tham dự của
6 phi tuần A-1H (3 của Phi đoàn 524-Thiên lôi/ KĐ 62 và 3 của Phi đoàn 516-Phi Hổ/KĐ
41 do Trung Úy Ôn văn Tài hướng dẫn..
‘’..Trên đưởng bay đi, máy bay của ta đă t́m thấy nhiều PT boat
của Cộng Sản ngoài duyên hải từ Khu Phi Quân sự trở ra và khi đến mục
tiêu các phi cơ của KQ VN đă gặp phải hỏa lực dầy đặc của địch,
đủ loại đại liên, cao xạ 37 lỵ Ngay đợt oanh tạc của Phi tuần
thứ nhất, Phi hổ 1 ( hay Flying Tiger 1, danh hiệu cùa Thiếu Tá Hùng) đă bị trúng
đạn đại liên 50 và động cơ bị chảy dầụ Sau khi thả hết
bom, Flying Tiger 1 hướng ra biển, cố gắng lấy cao độ để có thể
bay về đến bên này vĩ tuyến 17, để được cấp cứụ Wingman
Flying Tiger 2 là Thiếu Úy Vũ khắc Huề đă báo cáo với Panama để xin rescue cho
Flying Tiger 1..Tôi và Trung tá Minh đến bên scope của Thiếu úy Phước quan sát cuộc
điều động cứu cấp. Tr/tá Minh hỏi :’Radar có bắt được
tín hiệu cùa phi cơ Th/tá Hùng lái không?’.. Tôi nói :’được, nếu phi cơ
bay ở cao độ 3000 bộ và ‘squawk emergency..’ Tôi bảo Th/Úy Phước báo cho
ASOC 1 và Pḥng Hành quân Chiến cuộc KĐ 41 biết tin Flying Tiger bị bắn và xin xe cứu
hỏa, xe cứu thương túc trực chờ ngoài phi đạo, đồng thời xin
2 trực thăng H-34 của Phi đoàn 214 bay sẵn, chờ cấp cứu trong trường
hợp Th/tá Hùng phải bỏ phi cơ nhảy dù cho an toàn. Th/úy Phước cũng nhờ
đối tác (counterpart) Mỹ (USAF) xin trợ giúp trong việc cứu nạn Flying Tiger 1 đang
trên đường bay về căn cứ. Khoảng gần 4 giờ chiều, Panama có tiếp
xúc được với FT 1 ở cao độ 5000 bộ, phía Nam DMZ chừng 30 miles. Đại
úy Knight (USAF) cho biết có sẵn 1 trực thăng CH-54 của US Navy đang bay theo FT-1 và sẵn
sàng rescue..20 phút sau đó, FT-1 gọi’ mayday, báo cáo động cơ bốc khói dữ dội,
có thể phát hỏa..và phi cơ đang mất dần cao độ.. Đến 4 giờ 45:
Th/tá Hùng gọi :
- ‘Panama Control, FT-1 gọi..over’.. - 'FT-1, Panama nghe bạn 5/5..’ ..’ -
‘ Panama, tôi c̣n cách Đà Nẵng khoảng 20 miles, cao độ 3500 bộ, tôi sẽ phải
bỏ phi cơ nhẩy dù, v́ động cơ bắt đầu cháy..’
10 phút sau, Đ/úy Knight cho biết VNAF, FT-1 đă crashed ở 25 miles off shore, Phi công nhảy
dù xuống biển đă được CH-54 của Navy rescue.. và đang trên đường
bay về Quân Y viện Duy Tân tại Đà Nẵng...
Sau phi vụ này Thiếu tá Hùng được nghỉ dưỡng sức 15 ngày và sau đó
trở lại tiếp tục chỉ huy KĐ 41 và điều hành càc phi vụ Bắc phạt
cho đến tháng 5-1965.. (Theo Tr/T Trần đ́nh Giao, bài đăng trên Website bgkq)
Phi vụ Bắc phạt ngày 19 tháng 4 năm 1965
Phi vụ này nằm trong khuôn khổ các cuộc Hành quân Rolling Thunder 11-14 (kéo dài từ 17
tháng 4 đến 12 tháng 5 năm 1965).
Phi vụ gồm 6 phi tuần A-1H và A-1G do Trung tá Phạm Phú Quốc, Tư lệnh KĐ
23 chỉ huy và hướng dẫn. Mục tiêu là oanh kích các kho đạn và Trung tâm Tiếp
liệu của CSBV tại Hà Tĩnh.. Sau đây là diễn tiến Phi vụ nh́n từ Đài
Panama :
‘’.. Sĩ quan chỉ đạo tại đài Panama là Th/Úy Hoàng Bá Mỹ, Phụ
tá là Th/Úy Phạm quốc Tiến. Sĩ quan trực hành quân là Trung Úy Hoạt. Hai H-34 rescue của
KQVN được trực tại Đông Hà với danh hiệu ‘Butterfly 1 và Butterfly 2..’’
‘’.. như thưởng lệ, trong nhiệm vụ theo dơi diễn tiến phi hành
và cứu nạn 2 toán radar hành quân Việt-Mỹ đă làm việc kết hợp khá chặt
chẽ. Các thiết bị radar, scope trong t́nh trạng toàn hảọ Hệ thống canh gác
trên không và cứu nạn giữa Panama, và các đài Yankee, Pretty Girl..được phối
hợp rất chặt..’’
‘’..Các phi tuần của KQVN, 18 phi cơ, cất cánh lúc 1 giở chiều, danh hiệu
là Tiger Red. Danh hiệu của Tr/tá Quốc là Tiger Red 1. Panama đă hướng dẫn Tiger Red
đến mục tiêu oanh tạc và trở về gần như an toàn, mặc dù gặp phải
hỏa lực pḥng không của địch bắn lên rất dữ dộị Khi các phi tuần
bay trở về , đến gần đảo Ḥn Cọp (Tiger Island), một đảo nhỏ
ở ngoài khơi phía Bắc DMZ khoàng 5 miles, th́ bổng thấy Tiger Red báo cáo có súng dưới
đất bắn lên.. Một lát sau, Panama nghe Tiger Red 2 báo cáo : Tiger Red bị bắn rơi
! và đă crashed xuống đất gần băi biển ! TR 2 cho biết tiếp : Red 1 bị
bắn, quay lại định thanh toán ổ pḥng không..th́ bị hạ !..’. Tôi và Th/Úy Mỹ
cùng giật bắn người lên. Mỹ báo tin TR 1 crashed cho Tr/Úy Hoạt ở Pḥng Hành quân
biết, Hoạt cũng bấn lên và yêu cầu Panama nhở Hoa Kỳ giúp rescue Tr/Tá Quốc..Cả
Pḥng Hành quân đều lo âụ Hai chiếc trực thăng cấp cứu ỡ Đông Hà
được lệnh cất cánh, một lát sau Butterfly báo cáo là mưa gió kéo đến, trần
mây rất thấp không thể bay xa hơn được và xin trở lại Đông Hà. Th/Úy
Mỹ hỏi Tr/Úy Peoples(USAF) : Có chiếc A-1H cùa VNAF bị hạ ở tọa độ..
gần Tiger Island, các anh có chiếc rescue nào gần đó không ?.. Peoples cho biết USAF cũng
có một chiếc F-100 bị bắn rơi và đang làm rescue..!
Khoảng 3 giờ chiều, Tr/Úy Hoạt từ Pḥng Hành quân gọi cho Panama cho biết:
Lệnh của Tư lệnh KQ là phải rescue Tr/tá Quốc bằng mọi giá ! Thấy t́nh
h́nh nghiêm trọng, tôi vôi chạy lên lầu 3 gặp Đại/tá Champlin (TACC/ North Sector) nhở
liên lạc với Hạm đội để xin yểm trợ cứu nạn. Một lát
sau, Tướng Kỳ đích thân điện thoại nói chuyện với Đ/Úy Tiếp
(Trưởng đài Panama) để t́m hiểu việc rescue..
Trong khi đó, Peoples cho biết :’ Chúng tôi c̣n 1 CH-54, tôi đang dẫn vào vùng phi cơ
crashed , dưới sự cover của 2 F-4C..yêu cầu xác định lại tọa độ..’..
Mỹ kêu Tiến đo lại tọa độ và trao cho Peoples. Một lát sau Peoples cho biết
2 F-4C đă nhận ra nơi Tr/tá Quốc rơi, nhưng dưới đất có rất đông
người, có lẽ dân làng, đang chạy về phía phi cơ rơi..Tiếp theo là chiếc
CH-54 cũng báo cáo là mưa to, gió lớn, lại có thêm mấy chiếc PT boat từ bờ chạy
ra, có súng bắn lên từ dưới..nên không thể bay vào rescue được.. Các phi cơ
rescue bay quần thăo trên vùng phi cơ rơi một lát rồi đành quay về. Chúng tôi nh́n
nhau, lắc đầu thất vọng. Đ/tá Champlin : sorry v́ rescue kể như thất bại
!.. Peoples sau đó cho biết : trước đó hơn 1t́ếng USAF cũng có 2 F-100 bị
hạ nên việc rescue Tr/tá Quốc bị chậm trễ..
(Theo Tr/T Trần đ́nh Giao (De Couteau) viết trên Website bgkq) Ghi chú : Theo các tài liệu
chính xác th́ phi cơ củaTr/Tá Quốc bị bắn hạ gần Hà Tĩnh).
Phi công Trần Mạnh Khôi ( một trong 6 phi công tham dự phi vụ này) đă ghi lại
như sau : .. Nhiệm vụ phi vụ tuần thám vơ trang do Tr/ Tá Quốc huớng dẫn
là bay dọc Quốc lộ 1 từ Hà Tĩnh vào Nam nếu gặp những quân xa, trại lính
th́ cứ việc tấn công tiêu diệt chứ không có những mục tiêu nhất định..
‘’ Phi vụ bay ra Bắc ngày 19 tháng 4 năm 1965 do Tr/ tá Quốc dẫn là phi vụ
tuần thám vơ trang đầu tiên của KQVNCH và cũng là phi vụ Bắc phạt chính thức
và cuối cùng của KQVN, tuy nhiên sau đó các phi công của Biệt Đoàn 83 vẫn thi hành
những phi vụ bay ra Bắc..
Hôm đó bay từ Biên Ḥa ra Đà Nẵng gồm có 6 phi cơ A-1H. Sau khi đáp tại Đà
Nẵng, Ông Quốc cho chúng tôi ra Câu lạc bộ ở Phi cảng Đà Nẵng ăn cơm,
c̣n Ông th́ về nhà ăn cơm trưa với bà Cụ. Khoảng 1 giờ trưa th́ Ông lái
xe vào đón chúng tôi về Pḥng Quân báo/ KĐ 41CT để nghe thuyết tŕnh. 6 phi cơ đă
được chia ra như sau :
Phi tuần nặng được trang bị bằng bom nổ, rocket, đại bác 20
ly : 1- Tr/ Tá Phạm Phú Quốc: quyền Tư lệnh KĐ 23 CT 2- Th/ Úy Nguyễn Đức
Chương- PĐ 518 3- Đ/ Úy Đặng Thanh Danh- Chỉ huy phó PĐ 518 4- Th/ Úy Trịnh
Bửu Quang - PĐ 518
Phi tuần hộ tống được trang bị rocket và đại bác 20 ly : 1- Đ/Úy
Chế văn Nghĩa - Chỉ huy trưởng PĐ 514 2- Th/ Úy Trần Mạnh Khôi-PĐ
518
Sau khi cất cánh và vừa tập họp để check lẫn nhau là tới Mỹ Khê,
thế là Ông Quốc ra lệnh xuống thấp, chúng tôi đă bay sát mặt nước, dọc
theo bờ biển, đến phía Nam Hà Tĩnh th́ lấy hướng Tây bay vào đất liền,
rồi bay dọc theo quốc lộ 1 xuôi Nam. Cả 2 phi tuần đều bay ở vị
thế chiến đău và bay rất thấp (khoảng 50 feet trên mặt đất) để
tránh radar.
Khoảng chừng 5 phút sau th́ Quang la lên là số 4 bị bắn, thế là Ông Quốc vừa
múc lên quay lại 180 độ và bắn rockets xuống địch quân, th́ lúc đó Số 1
trúng đạn pḥng không nổ và cháy trên cao độ khoảng hơn 1000 feet (đây là lời
của Nguyễn đức Chương, tôi không thấy v́ lúc đó phi tuần hộ tống
c̣n ở xa và kinh nghiệm chưa có nên cứ mải bay theo leader và nh́n quanh). Mọi người
trong phi tuần la lên là Số 1 bị bắn rơi, lúc đó Anh Nghĩa ra lệnh cho Anh danh
dẫn Số 2 và 4 ra biển..tất cả phi cơ jettison bom và rockets ở ngoài biển và
hướng về Nam. Lúc đó Anh Nghĩa dẫn tôi bay gần vào check phi cơ của Quang
: phi cơ trúng đạn khá nặng, đầu wing tip của cánh phăi bị bắn văng
mất tiêu, có một lỗ khá to gần sát aileron..Tôi c̣n nhớ là Quang baynghiêng qua nghiêng lại
th́ Anh Nghĩa bảo là phải bay cẩn thận, quẹo (bank) từ từ thôi, đừng
quẹo gắt..nguy hiểm !..
( Theo e-mail trả lời người viết ngày 9 tháng 9 -2005 của KQ Trần Mạnh
Khôi)
Những phi vụ Bắc phạt của Phi công Lư ngọc An : Đại
Úy Lư ngọc An, một phi công kỳ cựu thuộc Biệt đoàn 83 , kể lại một
số chi tiết vể các phi vụ Bắc phạt cũa Ông trong bài ‘Đi không ai t́m
xác rơi’ đăng trong ‘Không Quân ngoại truyện’ Quyển thứ nhất..
‘.. ..Phi vụ Bắc phạt đầu tiên của tôi, tuy đă được briefing
rất kỹ và xem không ảnh về pḥng không của địch, ḷng tôi vẫn c̣n run sợ
v́ nghe những phi công đi trước dọa rằng ‘pḥng không của Bắc Việt
rất ư là khủng khiếp’, nhưng sau một vài phi vụ liên tiếp tôi đă
cảm thấy vững bụng và tự tin hơn. Phi vụ thứ 11 có hai phi tuần, đánh
chiếc cầu phía Nam của Vinh.. Chúng tôi đă được chỉ thị là khi vào đến
mục tiêu th́ salvo hết bom đạn, rồi rời mục tiêu..v́ rút kinh nghiệm những
phi vụ trước, ở trên mục tiêu lâu chỉ làm mồi cho pḥng không BV.. ngoài ra trước
khi đi, cũng được briefing là sau khi đánh xong mục tiêu th́ tập họp ngoài
biển để điểm..danh trước khi bay về..Nhưng khi kiểm danh th́ số
4 của phi tuần tôi..không trả lời.Sau khi được biết phi công số 4 trong
phi tuần là Nguyễn Thế Tế, một phi công trẻ mới ra trường từ Mỹ
về bị mất tích, tôi quyết định ở lại với số 2 của tôi là
cố vấn HK.. số phi cơ c̣n lại bay về đơn vị dưới sự hướng
dẫn của phi tuần trưởng phi tuần 2. Sở dĩ tôi dùng cố vấn Mỹ
bay số 2 cho tôi là để nhờ anh liên lạc với những phi tuần phản lực
của HK bay ở phía Bắc mục tiêu của chúng tôi, xem họ có thấy chiếc A-1H nào
bay về hướng Bắc không? Nếu không thấy th́ yêu cầu họ phụ giúp với
chúng tôi trong việc t́m kiếm chiếc phi cơ lâm nạn. Chúng tôi ở lại t́m kiếm
quanh mục tiêu trên 2 tiếng đồng hồ nhưng không thấy một vết tích ǵ trên
mặt đất hay trên mặt những hồ nhỏ rải rác quanh mục tiêu cả. Trong
khi t́m kiếm th́ chúng tôi cũng thấy những F-100, F-4 của HK bay thật thấp để
giúp t́m chiếc phi cơ của Anh Tế.. Bay cho đến khi gần hết xăng chúng tôi
phải trở về Đà nẵng đổ xăng rồi trở lại mục tiêu tiếp
tục cuộc t́m kiếm. Trở lại mục tiêu lần thứ hai, th́ trời đă xẩm
tối nên mỗi khi chúng tôi vào gần mục tiêu th́ thấy rơ những lằn đạn
pḥng không từ dưới bắn lên.. Màn đêm đă bắt đầu phủ xuống,
chúng tôi đành phải băi bỏ cuộc t́m kiếm để trở về Đà nẵng..
Phi vụ Bắc phạt thứ 12, vào ngày 28 tháng 7 năm 1965.. đă chấm dứt cuộc
đời phi hành của tôi.. Cũng như những lần Bắc phạt trước,
buổi sáng sau khi được Pḥng Quân báo Bộ TLKQ thuyết tŕnh về mục tiêu, chúng
tôi ăn cơm trưa tại Hội quán Lê văn Lộc rồi về Biệt đoàn chuẩn
bị cất cánh ra Đà nẵng để hôm sau thi hành Phi vụ...
Tôi trở lại Biệt đoàn, vào pḥng lấy dù. Nón bay và các dụng cụ cần thiết
để đi baỵ Chúng tôi gồm 2 phi tuần : tôi dẫn phi tuần đầu gồm
4 chiếc AĐ6 và Anh Nguyễn Quốc Phiên hướng dẫn phi tuần thứ 2. Tám chiếc
AĐ6 mở máy, kiểm soát vô tuyến và liên lạc với nhau trên những tần số
thường lệ xong chúng tôi xin đài kiểm soát di chuyển ra đầu phi đạo
để cất cánh.. Tôi cất cánh đầu tiên, phi cơ của tôi vừa lên được
khoảng 800 bộ th́ bị cháy, tôi trông thấy ngọn lửa đỏ rực ở hai
bên thân phi cơ, lúc đó đài kiểm soát và các phi tuần viên cũng báo cho tôi biết là
phi cơ của tôi bị cháy và tôi cũng nghe thấy vài phi tuần viên của tôi nhắc
nhở..tôi phải nhảy dù. Phản ứng tự nhiên của tôi là đẩy tay ga cho phi
cơ lên nhanh hơn để có đủ cao độ nhảy dù.. nhưng tay ga không c̣n hiệu
lực..Phi cơ của tôi không thể lên cao hơn nữạ Ở cao độ thấp
này không thể nhảy dù được, tôi đành quyết định quay lại để
đáp chứ không c̣n cách nào khác hơn. Tôi biết phi cơ có thể nổ tung bất cứ
lúc nào nên làm đủ phương thức để hạ cánh thật nhanh. Mọi thủ
tục sửa soạn cho phi cơ hả cánh không gặp ǵ trở ngại, chiếc phi cơ
của tôi quẹo ṿng chót và cận tiến như thường lệ nhưng khi xuống
đến khoảng 300 bộ th́ bị khói đen ở đầu máy tuôn vào buồng láị
Ngửi hơi thán khí, tôi bị ngất đi, và phi cơ, không người điều khiển
đă nghiêng sang bên trái và đâm xuống đầu phi đạo của phi trường Tân
Sơn Nhất ! Cái sức mạnh như trới giáng của chiếc phi cơ khi đâm xuống
đă làm cho tôi tỉnh dậy sau khi bị ngất đi khoảng 20 giây..tôi vẩn c̣n nhớ
sau khi cởi khóa an toàn dât nịt, nhăy ra khỏi phi cơ đang cháy lớn, mang cả chiếc
dù đít ḷng tḥng và nặng trĩu, bước ra cánh phi cơ rồi nhẩy xuống đất
để chạy thật xa.. Nhưng khi nhẩy xuống th́ tôi bị hẫng một cái v́
cánh phi cơ đă nằm sát mặt đất rồi (cái cảm giác đó đă làm tôi nhớ
măi..) Chạy khỏi đống lữa, nh́n lại phi cơ đang cháy như bó đuốc
và thấy bàn tay mặt của ḿnh lủng lẳng, tôi biết là tay đă bị gẫỵ
Tôi tiếp tục cố gắng chạy thật nhanh dù chiếc dủ gây lấn cấn..khó
chạỵThế mà tôi vẫn chạy như bay.. sau này mới biết khi gặp hoạn
nạn, thập tử nhất sinh, v́ bản năng sinh tồn, con người lúc đó có
được sức mạnh phi thường ! Chạy được một quăng xa, tôi
cảm thấy khá an toàn..nằm xuống và nghe thấy mấy chiếc AĐ6 đang bay trên
đầu.. Có một điều rất lạ là sau cái tai nạn đó, người tôi th́
bị cháy gần hết.. tay th́ bị dập nát cả mà tôi đă không cảm thấy một
chút đau đớn nào cả.. chỉ ngửi thấy mùi khét của chiếc áo bay và găng
da..’’ ( theo Phi công Lư ngọc An trong Không Quân Ngoại Truyện, quyển thứ nhất)
Phi vụ Bắc phạt của Đại Úy Vũ khắc Huể
(Đ/úy Vũ khắc Huề hy sinh trong một Phi
vụ Bắc phạt, sau đây là lời kể của Tr/tá Phạm B́nh An cựu Phi đoàn
trưởng PĐ 516, trong ‘KQ Ngoại truyện, quyển thứ nhất..)
‘’.. Hôm đó là ngày tôi làm sĩ quan trực PĐ. Vào khoảng 8 giờ sáng, nh́n
ra sân thấy thằng John đang ngồi ngoài nắng say mê viết thư. Lần đầu
tiên nó được đi đánh Bắc và Phi tuần trưởng sẽ là Đ/Úy Huề.
Nó có vẻ rất khích động khi nh́n thấy tên nó trên bảng đi đánh Bắc, cả
buổi sáng nó cứ đi ra đi vô hay đứng ở chỗ bản đồ hành quân
để đo đạc, check đường đi, nước bước..Phi tuần
có 2 chiếc , cất cánh lúc 11 giở và sau 1 giở trưa khi tôi sửa soạn đi ăn
th́ được tin ḿnh bị rơi một chiếc bên kia Bến hải.. Tôi chạy vội
lên Pḥng Hành quân KĐ th́ đă thấy đầy đủ văn vơ bá quan..Tôi thấy KĐ
Trưởng ngồi ngay giữa pḥng, hai tay để trên đùi, nh́n thẳng vào giàn máy phía
trước nghe báo cáo trực tiếp từ các đơn vị cứu nạn. Tiếng của
John nghe thật rơ, báo cáo về t́nh trạng Số 1 : Máy bay bị bắn cháy ở cao độ
thấp, hoa tiêu nhảy dù và không biết dù có kịp mở không? John nói tiếp : Phi vụ
đă thi hành xong, trên đường về, Số 1 ra lệnh tấn công một chiếc
tầu và không ngờ tầu đă dùng súng pḥng không cỡ nặng bắn lại nên Số
1 bị bắn cháy ngay trên không.
Trực thăng cấp cứu được điều động từ Mẫu hạm
c̣n PĐ cũng cho một phi tuần nhẹ cất cánh để yểm trợ cho trực
thăng. Phi tuần này do Đ/Úy Nguyễn Tấn Sĩ và Tr/Úy Vượng lái..
Trực thăng báo cáo đă tới mục tiêu, rồi thất thanh la lên : Chiếc Số
2 bị bắn trúng, nổ tung trên trời, không thấy hoa tiêu nhảy dù ra..c̣n Số 1 th́
chưa t́m thấy ! Tiếng Đ/Úy Sĩ trên tần số xin được tấn công chiếc
tàu.. Ông lập đi lập lại lần thứ ba, mới được Tr/Tá Không Đoàn
Trưởng trả lời :’Không ! Mang phi tuần về đáp !’’. Đ/Úy Sĩ
vẫn cố nài nỉ trên tần số, xin đánh để trả thù cho bạn, nhưng
KĐT vẫn nhất định giữ nguyên lệnh. Mọi người chung quanh đều
ngạc nhiên và bất măn..Sau này KĐT mới cho biết tầu này là tầu ngụy trang,
có đầy đủ pḥng không cỡ nặng, nếu ḿnh tấn công th́ chỉ thiệt hại
thêm ..Tôi đă mất 2 chiếc rồi..không muốn mất hơn nữa !.
.
Phi vụ Bắc phạt đặc biệt nhất của Phi công Nguyễn
Quốc Đạt
(Thiếu Úy Nguyễn Quốc Đạt là Phi công duy nhất của KQVN bị bắn
hạ trong các Phi vụ Bắc phạt, mà bị bắt làm tù binh, giam chung với các Phi công
Mỹ tại Nhà giam Hỏa ḷ). Th/Úy Đạt kể lại phi vụ này như sau: ‘’
Tôi thuộc Phi đoàn 516, đóng tại Đà Nẵng. Từ năm 1966, đây là Phi đoàn
duy nhất c̣n nhận trách nhiệm ‘Phạt Bắc’.. Bốn phi công đă bị bắn
rơi, và tôi là phi công duy nhất sống sót. Tôi bị giam tại Nhà tù Hỏa ḷ mà các phi công
tù binh Mỹ gọi là ‘Hanoi Hilton’.
Tôi bị bắn rơi ngày 14 tháng 5 năm 1966 khi đang bay t́m mục tiêu oanh kích trên đưởng
ṃn HCM. Đây là phi vụ Bắc phạt thứ 26 của tôi. Tôi bị trúng đạn pḥng
không và nh́n thấy rơ một lỗ hổng to nơi cánh bên tráị Tôi c̣n chừng 400 viên 20
ly, và chúng bắt đầu nổ như pháo bông. Ống dẫn dầu bị bể, gây thêm
đám cháỵ Một vụ nổ lớn khá mạnh khiến phi cơ của tôi gần như
lộn nhào.
Tôi cố bay thật nhanh về Khu Phi quân sự.. cao độ quá thấp để có
thể nhẩy dù..Nh́n thấy một cánh ruộng nhỏ, tôi quyết định đáp khẩn
cấp bằng bụng, trước khi chạm đất tôi c̣n kịp nh́n kim tốc độ
đang chỉ 230 knots. ‘Quá nhanh’ tôi tự nghĩ , nhưng không c̣n cách nào khác. Đây
là lần đầu tiên tôi ’crash’..nhưng lại tuyệt hảo ! Tôi nghĩ ḿnh
khó sống nhưng chiếc A-1 thật vững chắc. Tôi trèo ra khỏi máy bay không một
vết trầỵ Tôi cởi bỏ chiếc áo bay màu đen, tính trà trộn vào dân làng. Nhưng
khi nh́n lại thấy ḿnh đang mặc quần lót hiệu’Jockey’ của Mỹ, tôi
tự nhủ ‘Không xong rồi’, Ngoài ra tôi cũng sợ trực thăng cứu nạn
từ Đà Nẵng.. sẽ không nhận ra ḿnh ! Tôi ở bên bờ ruộng khoảng 1 tiếng
đồng hồ đến khi..bị bắt ! Tôi là phi tuần trưởng, và 2 phi tuần
viên của tôi..vừa tốt nghiệp từ Trường bay, bị ‘sốc’ và mất
định hướng khi tôi bị hạ..khiến việc cấp cứu bị chậm
trễ !
Tôi dùng danh hiệu ‘Max’ trong suốt 7 năm bị giam tại BV, và được
trao đổi tù binh năm 1973 trong Chiến dịch ‘Operation Homecoming’ ( Theo The A-1
Skyraider in VN của W.Mutza trang 142-143)
Trần Lư
Subject: 7 Vị Anh hùng Bắc Phạt Author:
togia9 Phượng Hoàng Trắng: Cố Đ/t Phạm Phú Quốc Sinh
ngày 29-8-1935 Tại Quăng Nam Gia nhập không quân 15-6-1954 Du học tại Pháp Khoá khu trục
đầu tiên Sau khi tốt nghiệp trở về phục vụ tại Biên Hoà
6-6-1959 Không kích vùng Tạn Phú (Kiến Phong ) Gây thiệt hại nặng cho đối
phương
1960
Chỉ huy trưởng Phi Hổ PD 516 Biên Hoà Tư lệnh KD 23 CT
28-3-1961
Tại Cao Lănh tiêu diệt hoàn toàn các cứ điểm địch
!962
Ném bom dinh Độc Lập với Tr/u Nguyễn Văn Cử Bị bắn rơi tại
bến Bạch Đằng Nguyễn Văn Cử bay qua Miên xin tỵ nạn
!963
Thay đổi chế độ Anh được phục chức cũ
Ngày 19-4-1965
Găy cánh trong phi vụ Bắc Phạt Cách Vinh về phía Đông Nam 10 km Lúc15 giờ 04
phút.Tại Hà Tĩnh
6 vị anh hùng Bắc Phạt sau đây lần lượt hy sinh
Cố Đ/u: Vũ Khắc Huề Cố Đ/u Nguyễn Tấn Sĩ Cố Đ/u
Nguyễn Hữu Chẩn Cố Tr/u Nguyễn Đ́nh Quư Cố Tr/u Nguyễn Thế Tế Và
Th/u Nguyễn Quốc Đạt bị bắt làm tù binh Khi nhảy dù ra khỏi phi cơ
(Không biết hiện giờ anh ở đâu, có c̣n sống hay đă hy sinh )
Anh hùng thay Cảm phục thay
Nhất Liên Tử
Phi vụ Bắc phạt đầu tiên (theo
lời kể của những người trong cuộc)
Trung Tá Nguyễn Huy Cương (Tạp chí VIETNAM February 1994) Sau cuộc tấn công của
Việt Cộng vào Trại Holloway gần PleiKu vào ngày 7 tháng 2 năm 1965, Tổng thống Lyndon
B. Johnson tuyên bố : ‘ Chúng ta đă treo súng trên giá, và giữ đạn trong ngăn kéo tủ
quá lâu..Tôi không thể yêu cầu các chiến sĩ Hoa Kỳ tiếp tục chiến đấu
tại Việt Nam bằng một tay, c̣n tay kia th́ bị buộc sau lưng.. Tôi muốn 3 điều
: tôi muốn [cuộc trả đủa] phải ngay lập tức, phải thích đáng, và
tôi muốn cuộc tấn công phải được phối hợp giữa các phi cơ Việt-
Mỹ’.
TT Johnson nghĩ rằng một cuộc tấn công phối hợp giữa hai Không lực
Mỹ-Việt sẽ chứng tỏ cho Hà Nội thấy rằng cuộc trả đủa
không chỉ là một đáp ứng của Hoa Kỳ đối với cuộc đột
kích của VC nhưng cũng liên hệ đến các hoạt động khác đang gia tăng
của Cộng quân. Tại Sài g̣n, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không Quân Việt
Nam (KQVN) tuyên bố với báo chí :’ Chúng tôi đă sẵn sàng, chúng tôi có thể tấn công
ngay chiều nay, Tôi không thể đoan chắc rằng toàn thễ Bắc Việt sẽ bị
phá hủy nhưng Hà Nội chắc chắn sẽ bị hủy hoại’.
Trên thực tế, KQVN chúng tôi đă sẵn sàng từ đầu năm 1964. Chúng tôi, gồm
10 người, tất cả đều t́nh nguyện và là những phi-tuần trưởng,
được lựa chọn trong số những phi công ưu tú của KQVN, để lập
thành Biệt đoàn 83 KQVN. Biệt đoàn được đặt tên là Thần Phong, theo
tên của Phi đoàn cảm tử Kamikaze Nhật trong Thế chiến thứ 2.
Dưới sự điều khiển trực tiếp của Tướng Kỳ, nhiệm
vụ của Biệt đoàn 83 là tấn công sâu vào lănh thổ Bắc Việt. Một thời
gian ngắn ngay sau khi Đơn vị được thành lập, một toán 3 quân nhân cố
vấn thuộc Hải quân Hoa Kỳ đă đến Biên Ḥa để giúp huấn luyện
và yểm trợ tiếp vận. Các phi cơ Skyraider của chúng tôi, không mang dấu hiệu,
đă thực tập ngày đêm, thả bom ở cao độ thấp và tấn công các vị
trí Cộng quân dọc duyên hải vào lúc hoàng hôn..
Sau cùng, ngày 7 tháng 2 năm 1965, lư do giải thích cho những ngày tháng tập luyện khổ
nhọc đă được hé mở.. Tôi được lệnh hướng dẫn một
phi tuần 10 chiếc A-1 bay về phía Bắc, đến điểm tập trung tại Đà
Nẵng.
Trong phi vụ Bắc phạt này, tôi được chỉ định làm phi công phụ
cùng bay với Tướng Kỳ trên một chiếc Skyraider A-1E, nhưng v́ tôi chưa bao giờ
bay kiểu máy bay này, nên Thiếu tá Tường đă thay thế tôi (Tôi bay trong Phi tuần số
2). Trên những ghế sau của chiếc A-1E là Đại Úy Nguyễn văn Lịch và một
cận vệ của Tướng Kỳ. Bay ở ví trí số 2 trong phi tuần của Tướng
Kỳ là Thiếu tá Nguyễn văn Long.
Phi vụ được dự trù sẽ diễn ra vào ngày 7 tháng 2, nhưng bị băi bỏ
v́ lư do thời tiết. Cuộc đột kích được dời lại vào ngày 8 tháng 2.
Mục tiêu được chỉ định là một căn cứ quân sự tại Chấp
Lệ, ngay trên vùng Phi quân sự giữa 2 miền Nam và Bắc Việt Nam. Tin t́nh báo do không
ảnh ghi nhận căn cứ này được bảo vệ khá kỹ lưỡng bằng
ít nhất là 12 giàn đại bác pḥng không, từ cỡ 12 ly 7 đến 57 ly.
Chúng tôi được thuyết tŕnh trong 1 giờ, bao gồm mọi chi tiết cần
thiết cho cuộc không tập, điều kiện thời tiết, bố pḥng của địch
quân trên đường bay đến mục tiêu và quanh khu vực oanh kích. Một câu hỏi
quan trọng nhất đă được đặt ra là liệu chúng tôi sẽ bay thật
cao để tránh đạn từ dưới đất hay bay thấp tránh bị radar phát
hiện để đạt được yếu tố bất ngờ ? Phi công phụ của
Tướng Kỳ, Thiếu tá Tường, thuyết tŕnh đầu tiên. Ông đề nghị
bay thấp để tránh radar, nhưng không phải ai cũng đồng ư..
V́ đă có nhiều phi tuần F-100 Super Sabre của KQHK bay yểm trợ diệt các vị
trí cao-xạ và bảo vệ chống các MiG của Bắc Việt, nên không cần thiết
phải bay thấp để có thể bị trúng đạn từ dưới đất..
Nhiều người trong chúng tôi muốn chọn phương án bay cao để tránh cao xạ
của địch quân, và nếu gặp trở ngại th́ có thể đáp xuống biển
hơn là đáp trên mặt đất, nhảy dù ngoài biển hơn là trong đất liền
để tránh bị bắt.. Nhưng với những lư do riêng, các Thiếu tá Tường
và Long nhất định giữ phương án bay thấp trong nội địa. Chúng tôi
không có sự lựa chọn, chỉ biết tuân theo.
Chúng tôi đến Pḥng tiếp liệu để sửa soạn các trang bị cần
thiết : mỗi người đều có áo mưu sinh trang bị máy vô tuyến hai chiều,
hỏa châu, la bàn, kính chiếu hiệu, bộ cấp cứu.. Chúng tôi đều mang theo súng
lục tùy thân..Với dù đeo trên lưng, chúng tôi mỗi người mang theo hơn 35 kg thiết
bị..
Các Skyraider đậu thành hàng, lần đầu tiên trong cuộc chiến, được
trang bị bom đạn ở mức tối đa : mỗi chiếc đem theo 2 quả bom
500 pound loại Mark-82, 12 quả bom 250 pound Mark-81, 800 viên đạn đại bác dành cho 4 khẩu
đại bác 20 ly ở 2 bên cánh..
Các phi cơ lần lượt cất cánh : một chiếc A-1E và 25 chiếc A-1H đă
hợp thành những phi tuần dự trù cho Phi vụ Bắc phạt. Tôi dẫn đầu
một phi tuần 4 chiếc bay ngay sau phi tuần số 1 của Tướng Kỳ. Trong phi
tuần của tôi: Thiếu tá Lưu Kim Cương bay vị trí số 2, Đại úy Trần
Bá Hợi bay số 3 và Đại úy Nguyễn quốc Phiên ở vị trí số 4. Tiếp
theo sau đó là 5 phi tuần, mỗi phi tuần 4 chiếc, do các phi công từ các Phi đoàn 514,
516, 518 và 520 điều khiển. Phi tuần sau cùng do Trung tá Dương thiệu Hùng hướng
dẫn.
Sau hơn một giờ bay, chúng tôi đến Vùng Phi Quân sự, và vượt qua sông Bến
Hảị Ngay bên bờ phía Bắc, tôi thấy ngay một lá cờ đỏ thật lớn
với ngôi sao vàng chính giữa : chúng tôi đă vào không phận Bắc Việt..
Chúng tôi bay gần đến V́nh Linh, thành phố đầu tiên cùa Bắc Việt : trước
đây đă từng là một căn cứ của Pháp nhưng nay là Bộ Chỉ huy của
một trung đoàn pḥng không BV, đồng thời cũng là một địa điểm
tập trung quân của BV.. Tôi thấy căng thẳng và hơi lo khi bay ngang căn cứ này..
và biết chắc sẽ gặp đạn pḥng không dầy đặc của Cộng quân..
v́ chúng tôi bay rất thấp, sát ngọn cây nên rất có thể bị bắn hạ bằng
súng cá nhân.. Tôi không cần phải chờ đợi lâu : tia lửa của đạn pḥng
không đă bắt đầu bắn lên, đường đạn đan chéo trên bầu trời..
Bất ngờ, tôi thấy chiếc phi cơ dẫn đầu bay vụt lên và bom từ cánh
rơi xuống..
Bẻ sang phải, tôi gia tăng tốc độ, bay vụt lên cao để tránh miểng
bom. ‘Phượng hoàng 1 vẫy cánh..tất cả các Phượng hoàng..theo tôi’. Tôi
gọi trong máy, nhưng lúc này mọi tần số vô tuyến liên lạc đều bị
nhiễu loạn khiến việc liên lạc gặp trở ngại, khó khăn, không một
phi tuần viên nào của tôi có thể bay theo tôi.. Cuộc không kích được triển khai
nhanh chóng lực lượng oanh kích đă bắt đầu dội bom Vĩnh Linh. Nhưng
Chấp Lệ, mục tiêu của chúng tôi c̣n cách Vĩnh linh đến 5 phút bay nữa, và trong
lúc này các F-100 Super Sabre của KQHK đang oanh kích các vị trí pḥng không quanh Chấp Lệ, gây
những cột khói trên bầu trờị Ỡ vị trí 12 giở trên cao, 4 phi cơ F-100
khác đang bay quanh vùng trời để bảo vệ chống MiG. ‘ Các phi cơ đang
bay trên Chấp Lệ chú ư’, tôi gọi trên máy,’đây là Phượng hoàng 1, mục
tiêu cách 2 phút baỵ Over’. Tôi bấm sang nút ‘tác xạ’ và nút thả bom ‘mũi
và đuôi’. Bay về hướng Bắc, về phía các cột khói tôi bắt đầu
vào vùng mục tiêu, chúi xuống từ 1500 feet, nhắm vào các doanh trại qua ống nhắm.
Tôi nhấn nút thả bom , rồi sau đó 6 lần để thả các quả bom bên 2 cánh.
Tiếng nổ gần như cùng một lượt của 2 quả bom 500 pound và 12 quả
250 gây rung động cả chiếc Skyraider. Các quả bom có vẻ như rơi và nổ ngay
giữa khu doanh trại, nhưng tôi cũng không quay lại để nh́n sự công phá, điều
lo nghĩ của tôi lúc này là mau bay khỏi khu vực này..v́ súng pḥng không đang bắn lên từ
mọi phía..
Đột nhiên, tôi cảm thấy một rung chuyển mạnh : một sưc mạnh
vô h́nh nâng chiếc máy bay lên cao vài trăm feet, kim chỉ xăng quay xuống số 0 và đèn
báo xăng bật đỏ. ‘Mayday, mayday’, tôi gọi trên tần số 243.0 tần
số báo động, và bay hướng ra biển, nhưng các xạ thủ BV chưa chịu
buông tha.. đạn tiếp tục đuổi theo khi tôi xuống sát mặt biển.. Khi bay
ra biển khơi, tôi cố nh́n quanh t́m các chiến hạm.. nhưng không thấy một con
tàu nào cả.
Tôi mở nắp pḥng lái, tháo nút dù và sửa soạn cho chuyện không thể tránh. Một
luồng gió mát thổi vào mặt tôi, và cảm thấy gió đang thổi vảo chiếc áo
bay màu đen đang ướt đẫm mồ hôị Nón bay trên đầu tôi , không tiếng
động, ngoại trừ tiếng nổ đều của động cơ 3000 sức
ngựa của chiếc Skyraider. Bay sát mặt biển, tôi rất ngạc nhiên khi thấy sóng
cao..tuy biển rất lặng. Tôi lưỡng lự không quyết định được
có nên bỏ máy bay không ? Các đèn báo về mức dầu và áp suất máy đều ở
trong khoảng xanh, đó là những dấu hiệu tốt.. cho thấy động cơ vẫn
hoạt động b́nh thường. Tôi đóng nắp buồng lái lại và tăng tốc
độ máy lên tối đạ Tôi lấy cao độ lên 3000 feet, chuyển sang dùng b́nh xăng
phụ, bay về phía Nam, hướng về căn cứ.
Tuy đă về chiều, nhưng trời vẫn c̣n sáng và ánh mặt trời chiếu sáng
mặt biển. Có những cụm mây ở cao độ 5000 feet. Tôi đảo mắt nh́n
quanh để mong t́m các phi cơ bạn, và nhận ra không khó chiếc máy bay của Tướng
Kỳ : nắp pḥng lái màu xanh xậm của chiếc A-1E nổi rơ trên nền trời.. Tôi
bay theo để về căn cứ..
Sau khi đáp xuống, tôi kiểm soát chiếc phi cơ, và t́m thấy ít nhất là hàng chục
viên đạn bắn trúng đuôi và thân tầu..Một viên đạn xuyên qua b́nh xăng và
phá hỏng van nổi, gây ra những tín hiệu báo động không chính xác nơi pḥng láị
Tôi chạy ra nơi hàng phi cơ đă đáp để gặp Tướng Kỳ, tại
phi cơ của Ông và thấy rằng phi cơ cũng trúng đạn: 4 viên bắn thủng
phi cơ : 1 viên trúng đồng hồ kiểm soát cao độ và văng vào tay Ông. Tất
cả các phi cơ tham dự cuộc không kích đều trúng đạn pḥng không. Hai phi công
đă phải nhảy dù xuống biển :Trung tá Dương thiệu Hùng và Trung Úy Nguyễn
văn Thuyết đă được các chiến hạm cúa HQ HK vớt.
Tướng Kỳ đă tuyên bố với báo chí : ‘Đây là ngày tươi đẹp
nhất trong đời tôi’.. (Con số phi cơ tham dự Phi vụ Bắc phạt
thứ 1 này theo tài liệu cùa KQ HK , là 24 chiếc. Trung tá Nguyễn huy Cương, có biệt
danh là Cương ‘Khào’, là 1 trong 3 Sinh viên Sĩ quan KQVN đầu tiên được
gửi sang Hoa Kỳ thụ huấn theo quy chế huấn luyện sĩ quan hoa tiêu của
KQHK. Trong 18 năm quân ngũ Ông bay đủ loại phi cơ từ Bearcat, Skyraider, T-28 đến
A-37 và F-5, phục vụ tại các Phi đoàn 516, 518, 522 và Biệt đoàn 83. Ông mất tại
Texas tháng 8 năm 1999. Ngoài ra có tài liệu ghi là khi các phi cơ VNCH vượt tuyến Bắc
phạt th́ được hộ tống bỡi các F105 và các F 105 này c̣n có các F-4 bay bao vùng để
bảo vệ)
Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ : (trích trong Buđha’s child trang 121-125 )
Ngày 7 tháng 2 năm 1965, Cộng quân tấn công một doanh trại của quân đội
HK tại Pleiku, gây thiệt mạng cho 8 quân nhân, 126 bị thương và hủy hoại 10
phi cơ. TT Johnson thấy đă quá đủ để phản ứng. Vài ngày sau đó, Ông
chấp thuận cho HQHK ném bom một căn cứ huấn luyện của CSBV tại Đồng
Hớị Tôi nghĩ rằng việc KQVN đóng một vai tṛ trong cuộc không kích sẽ
nâng cao tinh thần của Quân và Dân VNCH, và HK đă đồng ư.. Chúng tôi đă chuẩn bị
cho cuộc không kích Bắc phạt đầu tiên này của KQVN : tôi đă tổ chức một
đơn vị ưu tú : Phi đoàn Thần Phong.. Tất cả các phi công của Phi đoàn
đều t́nh nguyện tham gia phi vụ : tôi phải bắt thăm để chọn .. Và
cũng như tôi đă từng nhận bay những phi vụ đầu tiên thâm nhập Bắc
Việt, tôi quyết định tôi sẽ làm gương bằng cách dẫn đầu phi
vụ Bắc phạt đầu tiên này..
Hôm trước ngày oanh kích, chúng tôi bay ra Đà nẵng và nhận được một
cú điện thoại từ Tướng Tư lệnh Vùng 1 :’ Dân chúng Huế muốn
gặp Anh và các phi công của Anh trước phi vụ oanh kích ngày mai’. Nếu phi vụ
của chúng tôi cần bí mật..th́ chắc là yếu tố này..không c̣n nữạ Khi chúng
tôi đáp xuống Huế, chúng tôi được đưa đến một đại giảng
đường có hàng ngàn sinh viên nam nữ chờ sẵn..Trong bộ áo bay, chúng tôi lên sân khấu
để nói chuyện : ‘ Ngày mai, chúng tôi sẽ vượt biên giới, và có thể không
ai trong chúng sẽ trở về...’
Sáng hôm sau, trước khi bay hướng về mục tiêu, chúng tôi bay trên Thành phố Huế..
24 chiếc Skyraider bay hàng một thật thấp trên Thành phố.. Từ trên máy bay tôi nh́n xuống,
dân chúng đang vẫy chào..
Một giờ sau đó, vẫn bay hàng một, chúng tôi đến gần Đồng hới,
nơi tôi đă chọn mục tiêu cho Phi đoàn. Vẫn ở cao độ tuần tra, tôi
thấy hàng chục chiếc máy bay của HQ HK đang thả bom và bắn phá mục tiêu của
chúng tôị Sau đó tôi được biết là, v́ lo cho sự an toàn của tôi, nguời
Mỹ đă quyết định t́m cách diệt những ổ pḥng không quanh mục tiêu, giúp
chúng tôi dễ thả bom hơn. (Tôi chỉ biết điều này khi về đến căn
cứ).
Bay gần Đồng hới, vận tốc 350 miles/giờ, nh́n bầu trời đầy
đường đạn pḥng không đan chéo, tôi nghĩ rằng người Mỹ đă
oanh kích nhầm..và do ở mục tiêu dự trù ban đầu đang bị tấn công, tôi
nh́n quanh để t́m một mục tiêu khác: bất ngờ tôi thấy một ṭa nhà lớn
trang bị hàng chục khẩu pḥng không, tôi nghĩ rằng đây có lẽ là một vị
trí rất quan trọng. Tấn công ! (sau này tôi mới biết đó là Bộ Chỉ huy của
một Sư đoàn Pḥng không Bắc Việt)..
Tôi đẩy cần lái tới trước và chúi xuống với sức máy tối đạ
Ở khoảng 2000 feet, đạn pḥng không bắn lên như mưa bao phủ toàn bộ chiếc
máy bay..Chiếc Skyraider rung chuyển và chao đảo từng đợt. Một viên đạn
bay thẳng về phía tôi-tôi lấy tay trái che mắt ngay lúc kính pḥng lái rạn vỡ..Phản
ứng đầu tiên của tôi là bay vọt lên cao và quay về phía Biển Đông, v́ tôi không
biết mức độ hư hại của chiếc máy bay , và chưa biết là tôi có bị
thương hay không? Và nếu tôi phải đáp khẩn cấp hay nhẩy dù, th́ cơ may về
được căn cứ an toàn là đến được vùng người Mỹ đang
kiểm soát không và hải phận.
Do đó tôi bay về hướng Đông. Tuy có luồng gió mạnh thổi vào pḥng lái qua
ô kính đă bị vỡ, tôi biết rơ ḿnh chưa bị thương, và chiếc máy bay vẫn
hoạt động, tôi t́m cách ra lệnh cho các phi công tiếp tục oanh kích, nhưng liên lạc
vô tuyến giữa chúng tôi bị gián đoạn, không ai nghe được tôị Nh́n về
phía sau tôi thấy là khi tôi bỏ mục tiêu quay về, tất cả đều bay theo tôi :
trong các phi vụ oanh kích, các phi tuần viên thường bay theo phi tuần trưởng..
Một phút sau đó, khi mọi người thấy rằng tôi vẫn đang kiểm soát
được con tàu, các liên lạc bàn tán êm bặt. Trên hệ thống vô tuyến, tôi ra lệnh
tập trung vào mục tiêu, bay theo tôi và tiếp tục cuộc oanh tạc..Có vài người
cho rằng có quá nhiều súng pḥng không, mục tiêu được bảo vệ quá kỹ, nên
chọn mục tiêu khác !
Tôi trả lời :’ Không’ và ‘Tiếp tục’..và khi tôi trở lại mục
tiêu, tất cả đều theo tôi..Lần này tôi bay thấp vào mục tiêu, nhưng cần
phải lấy cao độ để thả bom. Cộng quân đă chờ sẵn : và khi tôi
bay lên cao, đạn chờ sẵn : thêm 2, 3 viên bắn trúng cánh..thời gian trôi như một
cuốn phim quay chậm, đạn pḥng không nổ quanh mọi phía.. Tôi nhấn nút thả bom,
kéo ngược cần lái.. bay vọt vào mây.. Theo sau tôi, các phi công, từng người lần
lượt, làm theo..
Khi chúng tôi tập họp lại, tôi đếm đủ 24 chiếc máy baỵ Tất
cả đều trúng đạn. 2 phi công báo cáo là các A-1 của họ bị hư hại
nặng, không thể đáp và bẻ lái rất khó khăn. Chúng tôi cùng bay đến khi thấy
Đà nẵng trước mắt, và tôi gọi trực thăng cứu nạn, ra lệnh cho
các phi công không thể đáp, nhảy dù xuống biển..và khi toàn bộ phi đoàn đă đáp
xuống Đà nẵng th́ cả hai đều đă được vớt an toàn.
Trước khi tiếp tục bay lại, tôi yêu cầu các thợ máy t́m giùm viên đạn
đă bắn vỡ kính pḥng láị Họ t́m được 1 đầu đạn 12 ly 7
ghim sau ghế tôi ngồi; khi tôi ngồi thử lại vào ghế, lỗ thủng nơi ghế
gần ngay giữa lưng tôi, và khi tôi giơ tay trái lên cao, tôi thấy chiếc áo bay màu đen
của tôi bị cháy trắng dài ngay dưới vùng cánh tay, tôi bóc lớp vải cháy và thấy
những vết bầm trên cánh tay ngay nơi áo bị cháy.. Có lẽ là khi tôi đưa tay che
mắt, viên đạn đồng nặng khoảng 250 gram, bay với vận tốc 2400 feet/giây
bị cánh quạt máy bay quay 1000 ṿng/ phút đưa vào vùng hẹp giữa tay và ngực của
tôi..
(Tướng Kỳ kể lại hơi khác trong tập sách How We lost the VietNam War hay Twenty
years and Twenty Days trang 56-57 : Ông thấy 49 máy bay cùa HQ HK oanh kích mục tiêu dành cho KQVN, để
tránh bị đụng, Ông hường dẫn Phi đoàn tiến đánh một mục tiêu
khác ỡ vùng Vĩnh Linh. Phi cơ của Ông bị trúng 4 viên pḥng không..Sự khó khăn của
phi vụ đầu tiên này không làm các phi công chùn bước : họ tiếp tục t́nh nguyện
thi hành các phi vụ kế tiếp..) .
Nh́n từ Đài Kiểm Báo : (Trích trong Hồi Kư của TrungTá Trần Đ́nh Giao trên
Web site Bạn Già KQ) Trong những Phi vụ Bắc Phạt, ngoài những phi công trực tiếp
bay trên những Skyraider thực hiện các phi vụ oanh kích, c̣n có sự đóng góp âm thần
nhưng tối cần thiết của các quân nhân KQVN làm việc tại Đài Kiểm Báo Panama
(đặt tại Sơn Chà, Đà Nẵng) :
‘ ..Trở về đài, Đại úy Đặng văn Tiếp ( Chỉ huy trưởng
Đài) triệu tập một cuộc họp hành quân, chỉ thị cho Thiếu úy Kế
(Pḥng Kỹ thuật) phải check tất cả các máy radar ḍ phương hướng, đo
cao độ, máy truyền tin và radar scope ..trong t́nh trạng khả dụng 100%. Riêng Pḥng Hành
quân, các sĩ quan chỉ đạo trưởng phải đích thân điều khiển những
hạ sỉ quan radar operator nhiều kinh nghiệm để làm’ flight following’ cho phi
vụ quan trọng này v́ đây là Phi vụ Bắc phạt đầu tiên của KQVN và do chính
Ông Tư lệnh KQVN hướng dẫn...
Đúng giờ G, khoảng 1 giờ trưa, Panama nghe danh hiệu ‘Tiger Crystal 1’
gọi trên tần số UHF : Phi vụ Bắc phạt bắt đàu khởi sự. Thiếu
úy Hoàng bá Mỹ, sĩ quan chỉ đạo , Trưởng toán C và Thiếu úy Bàn, sĩ quan
phụ tá, ngồi trước một radar scope dưới sự quan sát của Đ/U Tiếp
và tôị Sau khi Tiger Crystal liên lạc với Panama, tất cả đều im lặng vô tuyến..
Chúng tôi bắt đàu hồi hộp theo dơi trên màn ănh radar và tần số trực hành quân. Theo
ước tính th́ thời gian từ giờ G cho đến TOT (Time over Target) vào khoảng 45
phút.. .. Tôi coi đồng hồ và bảo Mỹ : c̣n 5 phút nữa, khi họ lấy cao độ
vào mục tiêu ḿnh sẽ có radar contact.. Tôi tiếp tục nh́n giờ và ‘count down’ ngầm
trong bụng, rồi ở những giây cuối cùng trên tần số..chúng tôi nghe rơ giọng
(Đ/úy Tường) : ‘2, 3,4 ,5 ,6 ,7 ,8.. 1 gọi : tất cả lấy cao độ, chuẩn
bị vào mục tiêu..’ Tiếp theo là những tiếng microphone bấm : ’bụp, bụp’,
mấy phút sau trên màn ành radar bắt đàu thấy các chấm lân tinh di chuyển theo hướng
mục tiêu đă kẻ sẵn. Rồi th́nh ĺnh nghe trên tần số tiếng la ‘ Một
in..rồi 2 in..3 in cho đến 8 in..’ Các operator chăm chú theo dơi, đếm đủ
8 chấm biểu hiệu 8 phi tuần trên scope đang di chuyển theo hướng ngược
ra khơi, lấy hướng Nam để về căn cứ. 10 phút sau nghe Tiger Crystal 1 :
Một gọi Panama, Tiger Crystal 1 gọi , over..Th/u Mỹ trả lời : Tiger Crystal 1, Panama
nghe bạn 5/5. Tiger Crystal 1 báo cáo : ’Phi vụ hoàn tất, mọi người vô sự,
chúng tôi trở về căn cứ, over’. ‘Roger Tiger Crystal1, Congratulations, over’. ‘Thank
you, Panama’ Trên đường về Tiger Crystal cho biết có pḥng không địch bắn
lên lẻ tẻ .. Sau đó Panama chuyển giao Tiger Crystal sang tần số đài GCA hưóng
dẫn về đáp xuống Phi trường Đà Nẵng..
Trần Lư
Chuyến bay tử thần vào đồi 31 Hạ Lào Kingbee Bùi Tá Khánh.
Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt
đường ṃn HCM đă được nhiều người viết ra. Đầu tiên là nhà
văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy
Dù Lê Đ́nh Châu, đại uư đại đội trưởng đại đội công vụ
nằm ṿng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt
quyển "Đôi mắt người TùBinh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uư sĩ quan phụ
tá ban 2 Lữ Đoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Đặc San
Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu
hồi ức dưới mắt nh́n của một người lính Không Quân.
Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Đoàn 51, Sư Đoàn I KQ trú
đóng tại Đà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm
vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối,
phá hoại hậu phương của địch. V́ thế tất cả phi cơ của
phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng
và không mang phù hiệu hay cờ ǵ cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ
thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lănh thổ và ngoài những cuộc hành quân
b́nh thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được
mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu
tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của
không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng
khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất,
lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn băi thiết lập
những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. V́ thế nên Quân
Đoàn I đă phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc
Sư Đoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ
đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm
trợ cho Sư Đoàn Dù, một trong 3 lực lượng ṇng cốt trong cuộc hành quân Lam
Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc
H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền
phương Sư Đoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế
lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các
đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường
là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh
sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện
này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau
mỗi phi đội trực chiến cho Sư Đoàn Dù 4 ngày rồi trở về Đà Nẵng
tiếp tục những phi vụ thường nhật.
Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung
tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ
hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau
về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.
Đúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những
cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi
cất cánh, trực chỉ Đông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa th́ chúng tôi ra đến
Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa v́ nóng ḷng muốn cứu đồng
đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi
lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào tŕnh diện với Bộ Chỉ Huy Tiền
Phương SĐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay th́ tôi và mêvô Em đi check
lại máy bay. Xăng vẫn c̣n đầy b́nh trước, dư sức bay không cần phải
refuel.
Một lát sau từ pḥng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ
quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến
điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để
phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn
thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường
mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm
được ghi nhận có pḥng không địch v́ t́nh h́nh lúc này rất gây cấn, địch
tập trung lên đến cấp tiểu đoàn pḥng không gồm đủ loại từ
37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên c̣n nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ th́ có 2 chiếc
Gunship của phi đoàn 233 do trung uư Thục bay trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đă được nói chuyện trực tiếp
với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh
Giang đă dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống,
nhưng v́ pḥng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ
anh bị trúng đạn rớt xuống găy đuôi nằm bên cạnh ṿng rào pḥng thủ ngoài
cùng của Lữ Đoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Vơ văn On bị xây xát
nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng
trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa
máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Đông-Tây
đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi c̣n nh́n thấy những
cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa.
Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Đông Nam-Tây Bắc để
đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đă thấy chiếc Gunship của trung
uư Thục bay ṿng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng pḥng không ở
hướng Tây". Từ trên phi cơ nh́n xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng
cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những
đốm bụi đất tung lên từng cơn v́ đạn pháo kích quấy phá của
cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục
đáp xuống. Khi phi cơ c̣n cách mặt đất độ 15 thước th́ trúng một
tràng đạn pḥng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ,
mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy".
Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng
đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn b́nh tĩnh đáp xuống.
May mắn là đạn trúng vào b́nh xăng phụ đă hết xăng, chỉ c̣n ít hơi
đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uư An ở Bù Đốp hôm nào.
Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện
rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi
về phía hàng rào pḥng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách
khoảng 100 thước. Tôi c̣n tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để
lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị
trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống
máy "sensor" vẫn c̣n nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy
lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uư,
tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc
chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như ḅ rống. Không quân mà hành quân dưới
đất th́ phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ măi hôm đó là ngày 22 tháng
2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nh́n xuống băi tải thương nơi chiếc
phi cơ đang đậu hiền lành, th́ cũng vừa lúc địch điều chỉnh
tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc
cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nh́n con tàu xụm xuống, ḷng quặn
lên. Con tàu thân thương đó đă gần gụi với ḿnh lâu nay, giờ thành một đống
sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần
về đến ban chỉ huy Lữ Đoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn
anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu
với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Đoàn 3. Đầu tiên là đại tá Thọ lữ
đoàn trưởng Lữ Đoàn 3, thiếu tá Đức trưởng ban 3, dại uư Trụ phụ
tá ban 3, đại uư Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uư Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu
uư Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh th́ có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại
uư Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Đại tá Thọ mừng
anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy
để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở
tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút ś-gà Cuba
và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc
cũng ch́ thật.
Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa
cơm dă chiến với ban tham mưu Lữ Đoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi
được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ
quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Vơ Bị Đà Lạt. Anh cũng là anh ruột của
trung uư Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự
mỗi ngày một căng thẳng hơn v́ đối với cộng sản bắc Việt,
sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường ṃn HCM như
một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. V́ thế cộng quân đưa
thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ư định đánh bật
căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được v́ địch
quân luôn di động dàn pḥng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu
thế của ḿnh. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả
nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm
́ ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại ch́m vào rừng núi trùng điệp.
Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt
ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.
Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển
ra các hầm cứu thương sát băi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn
với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành
đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm
trú ẩn. Đến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa
xa th́ cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi
31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nh́n qua bên kia đồi đối
diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rơ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân
tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh
đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ ṇng súng phụt ra, tôi và anh
Bửu thụp đầu xuống cùng nh́n nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn
thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ng̣ai kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mănh liệt, nhất là những
pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đă bị hỏng
bộ máy nhắm v́ pháo kích của địch, họ phải hạ ṇng đại bác để
bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt
đạn đầu tiên đă hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để
trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đă nằm xuống,
có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này
có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Đương, người đă là niềm
hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng
reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau
tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng
súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần
2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội h́nh địch, và lại
phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng
vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo
lắng cho số phận những đồng đội của ḿnh. Cho đến khoảng
5 giờ chiều th́ địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục
từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm ǵ
hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.
Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị
dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và
Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi.
Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh
Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Đến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu
ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị
thương nhẹ nên chúng bắt theo c̣n anh Giang v́ bị thương nặng găy cả 2 chân
không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần
mêvô Em th́ bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn
đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó
vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau
đớn Em gục chết ở bên đường.
Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của ḿnh một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên
chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đă vĩnh viễn ở lại trên
đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người c̣n lại của 2
phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn th́ sa vào tay địch, bị đưa đến
những bến bờ vô định, biết c̣n có ngày về hay không?
Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đă
thành danh hay vô danh, vẫn c̣n sống hay đă hy sinh cho quê hương đất nước.
Sau 31 năm it ra tên tuổi các anh vẫn c̣n được nhắc đến một lần.
Tháng 11 năm 2002
Bùi Tá Khánh
|
Subject: |
Mặt trận Kontum |
|
Author: |
togia9 |
|
Tại vùng 2 CT, khi CSBV mở cuộc tấn công nhằm Kontum,Pleiku.Phi
đoàn 530 Thái Dương, đặt căn cứ tại Pleiku, là nổ lực chính yểm
trợ bộ binh chống lại cuộc tấn công này. Ngày 28-4-1972 : CQ dùng 2 sư đoàn
BB và 1 trung đoàn thiết giáp tấn công Bộ chỉ huy SĐ22 BB VNCH Ngày 29-4-72 .Trong đêm
các Skyraiders của PĐ 530 đă được kêu cứu và KQ Lê Xuân Nhị đă ghi lại
trong bài Hai Mươi bảy năm trong Đặc San Không Quân Bắc California số tháng 10-1999
như sau :
1 giờ sáng ngày 29-4-1972,đại uư phi công khu trục Hai C̣i của phi đoàn
530 đang ngủ th́ điện thoại gọi anh lên cất cánh. Pḥng hành quân cho biết Bộ
Tư Lệnh SĐ22 BB ở Tân Cảnh bị tấn công, xe tăng VC đă tới phía ngoài
tuyến, cần mấy khu trục lên yểm trợ gấp..Một giờ sáng là cái giờ...tối
hù và buồn ngủ, và điều quan trọng ở đây là phi cơ Skyraider A-1 không phải
là loại phi cơ có khả năng để đánh đêm. Nhưng viển ảnh bộ
tư lệnh SĐ 22BB bị tràn ngập là một viễn ảnh không thể chấp nhận
được... Hai C̣i chụp lấy nón bay,cùng mấy người bạn ra tàu. Mấy chiếc
A-1 ra so hàng ở phi đạo rồi từng chiếc một cất cánh lên, biến mất
trong màn đêm. Hai C̣i tâm sự :"Trời tối và thời tiết xấu quá nên không bay hợp
đoàn được. Mỗi người xách một chiếc bay cất cánh lên, đâm thủng
bức tường mây bay tới mục tiêu nhưng phải trở về...Mục tiêu bị
mây phủ kín, có thấy ǵ đâu mà đánh. Trở về nhưng một lát sau lại cất
cánh lên trở lại. Trần mây lúc này lên được...một ngàn bộ. Quân trú pḥng đă
cầm cự anh dũng dù tăng VC vẫn tiếp tục tới gần hơn nữa.Bây
giờ th́ khu trục VN cất cánh ào ào.Một trong những người đó là Th/u Nguyễn
Tài Cơ (Khoá 69 A ). Cơ là một phi công trẻ mới ra trường, bay rất hay và thả
bom rất chính xác. Trần mây rất thấp 1 ngàn bộ có nghĩa là không thể thả bom
được v́ bom cần một độ cao tối thiểu 1500 bộ th́ mới đủ
sức ép để làm nổ ng̣i nổ kích hoả gây bom nổ... bay trên 1000 bộ là bay trong
mây, thấy ǵ mà thả ! Phi cơ chỉ mang bom nổ và Napalm, không mang rocket chống tăng
Th/u Cơ xuống thấp để thả Napalm và tàu bay trúng đạn pḥng không, cánh trái
bị bắn rách aileron... phi cơ không theo điều khiển nửa, anh đành nhảy
dù... và điểm đặc biệt nhất là Th/u Cơ đă được trực thăng
riêng của Cố Vấn Trưởng Vùng 2, John Paul Vann cứu thoát...Nay Th/u Cơ sống
tại California. Chúc mừng bạn.
|
Vài ḍng "Những ngày cuối đời Trần Thế Vinh" |
|
|
PhicongNhan |
|
MỘT CHÚT ĐỂ
NHỚ, NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI “TRẦN-THẾ-VINH”
Lại
một buổi sáng, ngồi đây một ḿnh sau vườn nhà, thời tiết nam California
vừa chớm lập đông. Ừ nhỉ, hôm nay, kỷ niêm ngày lần đầu tiên ta
đặt chân đến Hoa-Kỳ, Travis AFB SanFrancisco. Thấm thoát đă 40 năm, ngồi
đây hồi tưởng lại những thế sự thăng trầm trôi qua gần nửa
thế-kỷ.
Vậy th́, vào Cánh-Thép
t́m lại những người bạn thủa nào. Bất chợt, t́m thấy nhiều bài
viết về phi-công khu trụcTrần-thế-Vinh. Thôi th́, hạ bút viết vài hàng về
một người em hiếm có này.
Viết
về Trần-Thế-Vinh th́ nhiều lắm rồi. Nhưng, hôm nay chợt nhớ đến
một người em đáng quư, xin mạn phép được viết thêm vài ḍng.
Trần-thế-Vinh
là một trong số bốn (4) người phi-công thời chiến mà ḍng họ chúng tôi đă
gửi gấm cho Không-Quân Viêt-Nam Công-Ḥa ngày nào.
Một
lần ngày đó, vào khoảng cuối năm 1971, ngẫu nhiên nhưng lại trùng-phùng, cậu
em, Trần-Thế-Vinh từ Biên-Ḥa PD 518 ra biệt-phái cho ASOC. Ông anh, Minh “L..”, phi-công
A37 từ PD 524 Nha-Trang và PD 534 Phù-Cát cũng đang biệt phái ở Pleiku. Trong môt phi-vụ
oanh-tạc ngă ba biên-giới Việt Miên Lào, Vinh rủ hai ông anh đi bay chơi. Vinh bay cùng
với anh Minh, c̣n phi-công về già này may mắn được bay với ngài “Ninh DeGaule”.
Bốn tên lững thững bước ra phi-cơ, ngài “Vinh nghệt” thổi cho một
câu.
- T.. T.”, nhớ mang mấy ông anh cậu
về an lành nha cậu. Chưa thấy bao giờ ba anh em cùng bay trong cùng một phi-vụ. Nghich
ǵ, mà nghịch dữ vậy cậu.
- Có sao. Nhờ cậu tí.
Tối hôm đó,
ba anh em có dip hàn-huyên với nhau qua một màn chén chú chén anh ở một ngơ hẻm của phố
Pleiku. Tha hồ tán ngẫu..
- Vinh vừa đậu thêm chứng-chỉ Luật đấy à.
- Vâng, may mắn ấy mà anh
- Kinh thế. Ngày nào, tôi từ Petrus-Kư, c̣n Nh.. từ Chu-Văn-An. Lúc trước, học
ngày, học đêm vẫn thua Vinh. Vinh học đệ-ngũ,
cậu đậu trung-học. Cậu đậu tú-tài I lúc đang học đệ tam. Tṛn
16 tuổi, vào không-quân. Về nước, bay bổng ngày đêm, sau cậu đậu tú-tài
II. Bây giờ lại đậu Luật nữa”. Tôi không hiểu sao Vinh làm được.
- Đâu có ǵ, anh’. Chuyện nhỏ nhặt, ấy mà.
- Nghe nói ông cụ mới
lấy số tử-vi cho Vinh à.
- Bác nói em ‘ngắn số’ và nhiều người
biết đến. Ngoài ra bác không nói ǵ thêm.
- C̣n ông cụ tôi.Mỗi lần ông ǵa la mắng tôi,lúc
nào cũng lấy Vinh ra làm đề tài
- ‘Con phải lấy Vinh làm gương’.
- Th́ em cũng thế. ‘Con phải lấy Vinh làm gương’.
Nào là, ‘Vinh nó đẹp trai này, hoc giỏi này, điềm đạm này, tư cách này.
Nó không hút thuốc, không uống rượu, không trai gái’.
Lạy chúa trên
trời !. Chỉ có Chúa, Chúa mới biết hết nỗi oan-ức cho anh Minh và con”.
- Thôi, khi về Saigon nghỉ phép, ba anh em đi nhậu tiếp.
Đầu tháng tư
1972, đúng như đă hứa, ba (3) anh em lại có dịp cùng nhau, có dịp chén chú chén anh
ở Sài-G̣n. Và, đến “Hầm-Gió” nghe Khánh-Ly, Lê-Uyên-Phương hát. Nhắc đi
nhắc lại chuyện đau xót, người anh lớn, anh Dũng Sỹ-Quan hành quân tiểu
đoàn 11 Nhẩy-Dù, xuất thân từ khóa 20 VBQGVN, vừa tử trận năm trước
ở Dambe, xứ chùa tháp.
- Nguyễn-Đ́nh-Bảo đến nhà thăm
ông bà cụ. Anh Bảo buồn lắm, khi mất anh Dũng.
- Ngài Bảo và anh Dũng một lần vào
Bắc-Tiến t́m em đi làm một chầu ở Hố-Nai.
Mấy bác này uống dữ.
- Cũng c̣n thua một người.
- Ai anh.
- Hỏi là trả lời.
Quay đi quay lại.
Cả ba anh em đều bay yểm trợ cho tiểu-đoàn 11 ND của anh Bảo trên khắp
vùng trời nhỏ bé VN.
- Anh Hùng bao giờ từ Mỹ về anh,
bay loại phi-cơ ǵ vậy.
- Hùng đang ở Sheppard hay ở Eglin ǵ đó.
Hùng đang học F5. Chắc khi về cậu về nước, không Biên-Ḥa th́ lại Đà-Nẵng.
- Vinh à. Thế anh ǵ cùng khóa 65A với Vinh.
Qua biệt-kích. Sau trở lại Không-Quân và thành phi-công. Ngài này, rất tư cách. Đâu rồi.
- À, bác ấy đang ở cùng pḥng với
em ở trại Bắc-Tiến.
- Cậu vừa rớt ở tam-biên à.
- Vâng, chút nữa là đi tầu suốt đấy
anh.
- Em th́ bị bắn rách lưng ở Mộc-Hóa.
Xuống Napalm, vừa kéo lên, nó nạp em liền. Mấy chú “vẹm” hỗn thật.
- Tuần trước, một wingman của
anh vừa gẫy cánh ở Chu-Pao. Ḿnh mới vào xong pass đầu.
Sửa xoạn vào pass thứ nh́, đă nghe thấy cậu em kêu “Mayday” rồi. Không
hiểu sao cậu em này không nhẩy ra, lại kêu “Mayday”. Tôi thấy máy bay nó đâm
thẳng vào Chu-Pao, bốc khói. Tôi tặng mấy chú “vẹm” một màn Salvo. Wingman
này mới về phi-đoàn. Tôi mới huấn-luyện cậu này xong. Chết quá trẻ.
- Đời phi-công là thế. Có ǵ đâu.
- Thế Cao Hùng và Quang-Tuấn dạo này ra
sao.
- Sáng mai, Tuấn và em đi biệt phái Đà-Nẵng.
Nghe nói Quảng-Trị rất “HOT”. Chán thật. Trận chiến này kéo dài quá lâu. Ước
sao, anh em ḿnh “ỤC” mấy bác “vẹm đỏ” này một trận chổng
gọng, vài màn “chả ch́a” mấy chú vẹm, vài ly “ông già chống gậy”cho
nó xong hết cuộc chiến lê thê này.
Và, không ngờ,
đó là lời cuối cùng của Vinh đă hàn huyên cùng hai người anh cùng chung mộng
đời.
Và, bây giờ,
có khác ǵ đâu, anh Minh cũng đă ngắn số như người em Trần-Thế-Vinh
ngày nào.
Ước
mong, bên đời kia, hai cánh chim thời chiến, người anh và người em tôi,đang
an nghỉ trong ṿng tay yêu thương của Chúa.
Một chút
ǵ để nhớ trong mùa giáng-sinh gần kề. Chắc hẳn, thế nào cũng có sự
lẩm cẩm của người viết. Viết từ một cánh chim về chiều, khi
trí nhớ phải cần xét lại.
Trần-Thế-Vinh
thường đùa. “NHỜ CẬU TÍ”. Th́ cánh chim về già này, “Nhờ bác tí”
khi viết những ḍng này.
PCN, Giáng Sinh 2007
******
Subject: |
Sinh nhật buồn, Trần-Thế-Vinh |
|
Author: |
PhicongNhan |
|
SINH NHẬT BUỒN
Năm xưa ấy... Đúng vào ngày hai bảy
Nắng thu vàng trăi nhẹ khắp trời mây....
Hương ngạt ngào bởi hoa lá cỏ cây...
Cùng bừng dậy đón chào ngày anh đến...
Rồi anh khóc chào đời trong tŕu mến,
Cha mẹ vui, nhà vang rộn tiếng cười!
Xuân chợt về khi thu lá vẫn rơi.
Thoảng đâu đó... Nhạc vang trong ngày mới...
Trong nắng gió, cùng Quê Hương anh lớn.
Ngọn nến hồng bừng sáng mỗi tháng
năm...
Mẹ nuôi anh theo từng bước thăng trầm!
Anh khôn lớn trưởng thành theo năm tháng...
Làm trai sống thời quê hương ly loạn
Xếp bút nghiên anh chọn nghiệp đao binh
Cánh Đại bàng anh lướt gió quên ḿnh
Với mộng ước yên b́nh cho đất
nước
Mẹ thương nhớ dơi theo anh từng bước
Người yêu buồn gạt nước mắt
phân ly
Dấu t́nh riêng anh mạnh dạn bước
đi
Ḷng thầm hẹn ngày thanh b́nh trở lại
Mùa hè lửa giặc tràn qua Bến Hải
Anh hiên ngang đạp gió lướt ngàn mây
Xác giặc thù từng lớp lớp phơi đầy
Chiến xa địch tan hoang thành sắt vụn
Tin chiến thắng nở hoa đầu ngọn
súng
Bỗng Đại Bàng gẫy cánh giữa không
trung
Mang theo anh, thân xác một người hùng
Xa trần thế nghẹn ngào bao tiếng nấc
Đền nợ nước hồn thiêng anh bay
vút
Bao chiến công quà tặng của non sông
Dâng quê hương chí cả nợ tang bồng
Từ tạ Mẹ một lời chưa kịp
nói
Anh ra đi cánh chim chưa biết mơi
Ḍng máu hồng anh tô điễm giang sang
Cánh đại bàng chưa thỏa mộng dọc
ngang
Anh ngă xuống biết bao người thương
tiếc
Anh ra đi xứng danh người trai Việt
Trang sử vàng ghi đậm nét son anh
TRẦN THẾ VINH sống măi giữa
trời xanh
Gương anh viết nên khúc ca hùng tráng
Tôi cung kính và biết ơn vô hạn...
Bố Mẹ anh ,người là đấng sinh
thành!
Đă cho đời ,người có ích
như anh!
( Trao cho đời người con đă thành danh)
Mẹ măn nguyện, mĩm cười trong di ảnh...
Hôm nay đây cũng vào ngày hai bảy,
Nắng thu vàng vẫn ươm đậm trời
mây....
Nén hương ḷng tôi thắp tặng anh đây
Cảm ơn Mẹ đă sinh ra người ấy.
Nắng-Vàng
| |
Lam Sơn 719
Vùng Hạ Lào tháng 2 năm 1971.
P. Thông, Cựu Cơ Phi PĐ 239, KĐ51/SĐIKQ, Đà Nẵng
Cuối năm 1970, tôi tốt nghiệp từ
Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang ngành Cơ khí viên Phi hành trực thăng (gọi tắt là
Cơ Phi) chỉ số 43.150PH và được cha mẹ "chạy piston" một phát ra ngay phi
đoàn trực thăng mới thành lập là PĐ 233 phi trường Đà Nẵng -Xa xôi
diệu vợi-
Từ giă Sài G̣n mà ḷng muốn khóc.
Khi ra tŕnh diện
đơn vị th́ mới biết Phi Đoàn của ḿnh chưa có cơ sở hay văn pḥng
ǵ cả, nên tạm thời anh em Cơ phi chúng tôi được đặc phái cho một
trong những phi đoàn trực thăng kỳ cựu của KQ là PĐ 213 Song Chuỳ. Mấy
tháng đầu, chúng tôi được cắt đi bay vùng nam Đà Nẵng, quận Đại
Lộc và tham dự các trận đổ quân chung quanh đồi 55 (Hill 55) của Trung Đoàn
51 Biệt Lập.
Hai tháng đi bay này là kinh nghiệm rất
quí báu đối với chúng tôi để học hỏi trong khi mặt trận chưa có ǵ
sôi động. Vùng I chiến thuật vẫn c̣n yên tĩnh một phần cũng nhờ các
căn cứ hoả lực của BB và TQLC Hoa Kỳ giữ ǵn an ninh, Sư Đoàn Americal
trấn thủ vùng Chu Lai, Quảng Ngăi cùng với SĐ2BB. Chung quanh Đà Nẵng th́ TQLC Hoa
Kỳ (USMC). Vùng Huế, Thừa Thiên là SĐ 101 Airborne và SĐ1BB của VN.
Khoảng đầu tháng hai năm 1971, sau
khi ăn một cái Tết đầu tiên ở miền Trung th́ thời tiết Đà Nẵng
bắt đầu lạnh giá đối với những người trong Nam mới ra, chúng
tôi được tin từ phi đoàn là sẽ có một cuộc hành quân rất lớn gần
vùng phi quân sự (DMZ) hay là Khe Sanh ǵ đó và PĐ213 sẽ được biệt phái ra Đồng
Hà để yểm trợ cho quân bạn. Chiều ngày 10 tháng 2, tôi nghe được tin từ
PĐ là cơ phi Nguyễn Hoàng Ánh (cùng khoá với tôi) và Đệ (nhân viên của PĐ213)
đă mất tích và coi như là tử trận, v́ hai chiếc trực thăng đó đă bị
pḥng không bắn nổ trên vùng trời Hạ Lào, trong một phi vụ chở bộ tham mưu
QĐI và bốn phóng viên ngoại quốc đi căn cứ hoả lực BĐQ Bắc (Rangers
North) và BĐQ Nam (Rangers South). Nếu quí vị muốn biết thêm chi tiết về phi vụ
đinh mệnh này xin t́m đọc cuốn “Lost Over Laos”, của tác giả Richard Pyle
(cựu phóng viên AP ở Sài G̣n). Cơ phi Ánh và Đệ cùng cư ngụ chung cư xá với
tôi, cả hai c̣n rất trẻ và dễ thương như những cậu học tṛ, thường
kể chuyện tiếu lâm và cười đùa với anh em. Anh Đệ người hơi
nhỏ con và hay mặc bộ đồ bay Nomex của US Army,
v́ đă ra trường lâu hơn và có nhiều kinh nghiệm nên thường chỉ bảo
những ǵ anh biết.
Hai tuần sau th́ tới phiên tôi được
biệt phái ra Đông Hà để tham dự Lam Sơn 719 bên Hạ Lào. V́ mới ra trường
nên tôi chưa biết lạnh cẳng là ǵ, đă không lấy làm sợ mà c̣n thấy kích thích,
c̣n muốn đi hành quân nguy hiểm. Tôi sinh trưởng ở Sài G̣n nên chưa bao giờ được
biết mùi lạnh lẽo là ǵ, nhưng sau khi ngủ một đêm đầu tiên ở Đông
Hà, th́ trời ơi, lạnh ǵ mà ghê gớm đến teo cả chim đi!!!
Ngày 26 tháng hai, sáng sớm ra tàu để làm tiền phi tôi thấy
hơi thở của ḿnh phun ra như khói thuốc th́ mới hay độ lạnh đă dưới
5 độ C. Anh xạ thủ răng đánh lạch cạch v́ lạnh đang coi lại
hai cây M60 và nạp đạn sẵn sàng. C̣n tôi và ông hoa tiêu phó làm tiền phi (pre-flight check)
chiếc tàu. Chúng tôi nghe phong thanh là t́nh h́nh gần biên giới Lào rất nóng bỏng v́ các phi
vụ ngày hôm trước đều bị bắn tơi bời cả. Mấy phút sau, ông
trưởng phi cơ Cao Mạnh Hùng đă ra tới. Anh hỏi vài câu về máy bay và vũ
khí rồi kêu anh em chuẩn bị để quay máy, bay vào Khe Sanh túc trực cho QĐI tiền
phương hay gọi là Hàm Nghi.
Trên đường vào Khe Sanh, cả hợp
đoàn bay thấp dọc theo QL số 9, qua Cam Lộ, Mai Lộc với những trảng tranh
và đồi sim bạt ngàn, th́ rừng núi bắt đầu cao chớn chở, những vạt
mây giăng ngang sườn núi và gió rất lạnh thổi lồng lộng trong con tàu không
đóng cửa. Ngoại trừ anh Hùng mặc áo blouson da anh mang từ Mỹ về dầy
cộp rất ấm, ai nấy cũng đều phải khoác thêm một áo lạnh của
bộ binh v́ cái jacket của KQ cung cấp, không đủ sức để chống cái lạnh
tàn khốc của miền đèo heo hút gió này. Để có thêm hơi ấm, thuốc lá được
thay phiên ph́ phèo liên miên trong tàu. Khoảng 30 phút sau th́ cả hợp đoàn đáp ở phi trường
Khe Sanh, đổ đầy xăng rồi bay tới Hàm Nghi để đợi lệnh
hành quân từ Quân Đoàn I Tiền Phương.
Hồi Tết Mậu Thân 1968, tôi c̣n đi
học ở trường TH Lê Bảo Tịnh, th́ đă từng nghe nói về Khe Sanh hầu
như mỗi ngày trên TV và báo chí, v́ TQLC Mỹ bị quân Bắc Việt bao vây cả tháng trời,
cho tới nay tôi mới đựơc hân hạnh nh́n thấy và đặt chân đến
một vùng mà chỉ nghe nói cũng đủ nổi da gà. Thật ra vùng Khe Sanh rất đẹp
và hơi giống Đà Lạt về rừng rậm và cây cối, nhưng Đà Lạt không
có nhiều hố bom B52 như Khe Sanh. Những đồn điền cà phê có từ thời
Pháp thuộc nay bị bỏ hoang, thân cây cao lớn, trái chín đỏ đầy cành cũng
không có người lính nào thèm hái xuống rang uống chơi, khi mà chiến trận c̣n đang
khói lửa mịt mù. Ở đây c̣n những vạt chuối rừng mọc dài theo ven suối,
trái chín vàng nhưng ăn tệ lắm, đă lạt nhách mà ở trong c̣n đầy hột
như chuối chát ở dưới miền xuôi.
Khi đang chờ đợi ở Hàm Nghi,
tôi và anh xạ thủ check lại tàu và vũ khí lần nữa cho chắc ăn, đâu đó
cũng có những Phi Hành Đoàn móc bài ra binh xập xám "chay" cho qua thời giờ. Chẳng
bao lâu th́ thấy anh SQKQ liên lạc của QĐI gọi tất cả trưởng phi cơ
vào họp trong trung tâm hành quân TOC (Tactical Operating Center). Vài phút trôi qua th́ anh Hùng trở ra cho biết
phi vụ này sẽ chở các phóng viên ngoại quốc. Nghe vậy tôi khoái quá v́ nghĩ là phi
vụ này cũng nhẹ nhàng. Chốc lát sau có khoảng 4 hay 5 phóng viên đeo máy lỉnh kỉnh,
đồ đạc lùm đùm chạy lúp xúp ra tàu, trong số đó có một bà phóng viên Mỹ
làm cho tuần báo Time ngồi kề bên tôi. Di chiến trường Khe Sanh chắc lâu ngày không
tắm rửa ǵ nên bà hôi nách thấy mồ tổ, gió trực thăng mạnh như thế
mà tôi c̣n muốn ngạt thở !!! Bà thấy tôi nhăn nhó như con khỉ ăn mắm tôm
nên móc ra gói Salem mời cả Phi Hành Đoàn hút (cũng đỡ vă).
Hầu hết phóng viên chiến trường
đều mặc đồ nguỵ trang nh́n giống như biệt kích. Phi vụ này được
hai chiếc Gunship Cobra của Lục quân Mỹ hộ tống. Hợp đoàn ba chiếc giữ
cao độ chừng 5 tới 6 ngàn bộ bay về hướng Tchepone (Sepone) dọc theo QL9
và sông Tchepone.
Tôi vốn thích cảnh núi đồi hùng vĩ,
th́ được ngay dịp này mà ngắm cho bằng thích. Chưa vào tới nơi, mọi
người nh́n về phía nam th́ thấy từng cây số, khói lửa bừng lên trên màu xanh
thẫm của núi rừng-B52 đang trải thảm - Được găi trúng chỗ ngứa,
các phóng viên click camera lia lịa. Thế nhưng chúng tôi nhận được lệnh phải
quay 180 độ trở lại Hàm Nghi v́ đại bác pḥng không chào đón, nổ đầy
trời như những cục bông g̣n. Thứ này là khắc tinh của Trực Thăng v́ tốc
độ chậm như vậy sẽ làm mồi ngon cho các đồng chí.
Về tới Khe Sanh bỏ các phóng viên xuống,
vừa bay đi đổ đầy xăng th́ tàu tôi nhận được lệnh đi
tải thương cho SĐ Dù ở gần đồi 31. Anh Hùng dặn ḍ anh em cẩn thận
trong phi vụ này, bởi v́ nguyên một Lữ Đoàn Dù ở đồi 31 (Hill 31) đă bị
tràn ngập (over-run) đêm vừa qua và họ đang chạy về hướng đồi
30. Tôi nghe thấy cũng hơi sợ, v́ biết rằng trực thăng của Ánh và Đệ
cũng bị bắn nổ tung trong vùng đồi 31 này, và L19 c̣n cho biết là quân Bắc Việt
keo này chơi toàn là súng lớn từ 12 ly trở lên tới 57 ly, điều chỉnh bằng
radar. Phi vụ này có hai gunship của PĐ213 bay hộ tống cho chắc ăn hơn các anh
Cobra của Mỹ. Vô gần tới địa điểm th́ anh Hùng và hai gunship bay thật
thấp để tránh pḥng không nên rất khó t́m thấy LZ. Quân Dù ở dưới đất
gọi máy cho biết họ bị địch bám rất sát, nên không thể sử dụng
được khói màu, nên phải trải panel vải màu cam để nhận diện băi đáp.
Bay hai ba ṿng chung
quanh các ngọn đồi cây cao dầy đặc, như phơi bụng phệ cho chúng bắn
th́ tôi mới thấy tấm vải màu cam, trải ra trên một sườn đồi mà cây
rừng mới được đốn hạ.
LandingZone nhỏ quá lại trên thế
đất slope, gốc cây chĩa lên như một băi chông coi ghê quá ! Tôi nói với anh Hùng trên
intercom "Tôi thấy Panel màu cam ở hướng 3 giờ". Anh Hùng liền bay đảo lại
và gọi: "Song Chuỳ 2 thấy bạn rồi, xin cho mật mă". Dù: "Song Chuỳ 2 nhận
5 trên 5. Đây là Quang Trung 1, mặt trời mọc".
Biết là đúng đơn vị bạn
(ngay cả phi công Mỹ cũng đôi khi bị VC lừa, bởi v́ địch cũng nói
được tiếng Anh để dụ trực thăng Mỹ đáp rồi phóng B40).
Anh Hùng nói trên intercom: "Cơ Phi và Xạ Thủ coi chừng hai bên, clear băi đáp".
Cả hai nhận lệnh và tôi đă sẵn
sàng chong cây M60 lên, Vẹm mà có ào ra là sẽ "Sinh Bắc tử Nam" ngay. Tàu vừa xuống thấp
và tốc lực khoảng 30 knots rồi chậm dần để vào final approach th́ tôi nhận
thấy băi đáp trước mặt rất ngặt nghèo, nó nhỏ có chút xíu và bao bọc xung
quanh là cây rừng cao lớn.
Thường th́ Trực Thăng của VNAF
ḿnh, trưởng phi cơ sẽ ngồi ghế phải và Cơ phi cũng ngồi bên phải,
nhưng v́ chiều gió và sườn đồi không thuận nên anh Hùng phải cho tàu đáp
về bên trái. V́ lư do đó cho nên anh không thấy băi đáp trọn vẹn như phía bên hoa tiêu
phó. Một phần nữa là anh em Dù di tản và chiến đấu cả đêm qua, đă
quá mệt mỏi cho nên đâu c̣n sức mà đốn cây cho rộng, trong khi VC cứ nghe tiếng
động đốn cây là pháo kích liền.
Anh Hùng, một tay hoa tiêu từng tốt nghiệp
khoá Mèo Đen (BlackCats) của Mỹ ở Non Nước, Đà Nẵng nên tay lái rất vững
vàng, nhưng v́ sức gió trên đồi rất mạnh, "hover" rất khó khăn, anh đặt
được một skid trên băi đáp lởm chởm, giọng của anh xạ thủ nói
lớn trên intercom: "Clear Left".
Anh Hùng mặc dù trở ngại v́ không thấy
phía bên trái nhiều, nhưng ráng giữ hover cho các anh em Dù đẩy được một
số thương binh và hai poncho xác chết lên sàn tàu. Tôi nghe tiếng AK lóc cóc từ triền
cây phía dưới và bên phải bắn vào tàu. Tôi nói trên intercom: "Có AK bắn hướng bên
phải", rồi nhoài người ra bắn trả được hai tràng dài th́ kẹt đạn.
Mẹ cha nó, lúc này mà kẹt đạn th́ có tức không? Nhưng có lẽ cũng không cần
thiết phải bắn nữa, v́ lúc đó tôi thấy địch quân lô nhô dưới chân
đồi bắt đầu chạy tán loạn, hai ông nội Gunship nhào xuống bắn minigun
như ḅ rống và rocket phụt ra từ hai bên xối xả.
Trong lúc tàu vừa nhốm lên cất cánh, sức
nặng của thương binh cùng với sức gió đă làm con tàu chao nghiêng về phía trái,
trong tích tắc cánh quạt lớn đă chém vào ngọn cây rừng kêu một tiếng "đùng"
rất lớn như đạn pháo kích. Hoa tiêu phó la lên "Tàu chém cây rồi!", thân tàu rung lên bần
bật, tôi suưt té đái trong quần . Anh Hùng báo cáo cho Gunship: "Tao chém cây, có thể thiệt hại,
nhưng ráng cất cánh". Vừa nói xong anh nhấc tàu lên cao, quẹo về hướng phải,
chúi mũi để lấy tốc độ, rồi lên cao dần. Lúc đạt được
khoảng 60 knots th́ tàu bị rung và nhảy nhổm kỳ cục như là cưỡi ngựa.
Anh Hùng gọi: "Lead Guns, Song Chuỳ 2 bị
thiệt hại phải bay chậm, yêu cầu cover cho về tới Kilo Siera". Lead Gunship: "Okay,
an tâm, tao đang đi sau mày đây".
Chúng tôi về đến Khe Sanh lúc trời
đă về chiều, từng làn bụi đỏ bay lên ào ạt theo gió cánh quạt. Đă
qua một ngày khói lửa, tiếng đề ba của dàn trọng pháo 175 ́ ầm bắn về
hướng núi. Đài Tiếng Nói Tự Do đang phát ra trên tần số FM radio của máy
bay, bản nhạc Bên Cầu Biên Giới qua giọng hát Lệ Thu. Ngồi đây nh́n xuống
gịng sông chảy ngoằn ngoèo xuyên qua chân núi phía dưới xa kia, cũng có chiếc cầu
nơi vùng biên giới thơ mộng, nhưng đâu c̣n vẻ yên b́nh như trong bài hát tiền
chiến đó.
Ở miền xuôi nơi phố
chợ hay đô thành, người ta vẫn ăn, vẫn chơi, vẫn đêm đêm nhảy
nhót trong ánh đèn màu. Cha mẹ, anh em tôi, người em gái bé nhỏ c̣n áo trắng đến
trường vẫn thản nhiên trong cuộc sống, họ đâu biết chúng tôi vừa
thoát chết trở về.
RỚT Ở HẠ LÀO
Ngày xa xưa đó, KQ có rất nhiều
ngành được cho đi du học, nhưng cái ngành Cơ Phi của tôi th́ có nằm mơ
cũng không được xuất ngoại. Ai cũng ham đi, v́ không những được
biết đó biết đây, mà sau một thời gian ngắn, khi về nước ít nhất
cũng có tí tiền c̣m sắm được chiếc Honda hay cái Lam-Brét-Tuưt chở đào vi
vút. Ấy vậy mà sau cùng số trời đă định, tôi cũng được "xuất
dương" !! Cho dù là đi qua Lào ... và bị bắn rớt bên đó mà chẳng được
ăn cái giải rút ǵ.
Ngày 28 tháng
Hai, năm 1971….
Hôm nay là ngày thứ ba tôi được đặc
phái bay cho Biệt Đội Tiền Phương đóng tại Đông Hà, yểm trợ Hành
Quân Lam Sơn 719 và cắt bay với phi hành đoàn mới, Tr/u Đạt, Trưởng Phi
Cơ, Thiếu Uư Bi, Co-pilot, và anh xạ thủ tên Thuận mới thuyên chuyển từ Bộ
Binh qua, anh khá lớn tuổi so với đám cơ phi trẻ măng như tôi.
Hai chiếc trực thăng danh hiệu Kingstar
4 và 5, lead bởi Thiếu Uư Phúc của PĐ213, trên đường bay vào Khe Sanh phải đáp
ở Tà Lu (LZ Vandergrift) để đổ thêm xăng. Chúng tôi được lệnh stand-by
cho SĐ1BB, nên xúm vô "binh xập xám" cho qua thời giờ, đứa nào không c̣n tiền mà cũng
không muốn chầu ŕa th́ giăng vơng nằm ngủ hoặc đọc sách báo. Khoảng 10
giờ sáng trời bỗng bớt sương mù và Thiếu Uư
Phúc (lead slick) nhận được lệnh bay vào Căn Cứ Hoả Lực Hồng Hà 2
để tiếp tế và tải thương cho Trung Đoàn 3/SĐ1BB.
Căn Cứ
Hoả Lực Hồng Hà 2 được chiếm giữ và pḥng thủ bởi Trung Đoàn
3. Đó chỉ là một ngọn núi nhỏ vô danh với cao độ dưới 2000 bộ
nằm bên đất Lào, về phía Nam của Lao Bảo và QL 9. Mặc dù không tên tuổi trên
bản đồ nhưng nó đă trở thành một căn cứ chiến lược trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719, bởi v́ nằm chặn ngay yết hầu của đường
ṃn HCM, cho nên con cháu Bác dù bất cứ giá nào cũng phải "Bứt gọn, diệt gọn".
HH2 có hai băi đáp, một băi nhỏ dành cho
UH-1 nằm kế bên Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, và chừng 50 thước về hướng
Nam là một băi đáp rất rộng dành cho trực thăng lớn như CH-47 hay CH-53 dùng
di chuyển Đại Pháo 155 ly. SĐ1BB cho PHĐ biết là t́nh h́nh nguy hiểm nhưng không
đến nỗi tệ. Sau này tôi mới biết là nhiều tin tức t́nh báo, quân báo đă
bị che dấu v́ họ sợ anh em KQ từ chối phi vụ. Bởi v́ sự thật rất
là phũ phàng, HH2 đă bị bao vây nguy ngập cả mấy ngày nay và nhiều trực thăng
HK đă bị bắn rớt, cho nên họ đă không đảm nhận những phi vụ
mới vào băi đáp này nữa và gọi là "Hot LZ". Th/u Phúc biết là phi vụ này rất nguy
hiểm cho nên anh ra lệnh cho tất cả anh em hăy chuẩn bị sẵn sàng như Kinh Kha
sang Tần, có người c̣n thủ theo cây M16, b́nh tông nước và gạo xấy, nhất
là mấy anh xạ thủ đă từng ở BB nên kinh nghiệm về vụ này lắm, lỡ
có rớt c̣n có cây súng hộ thân và đồ ăn nước uống để cầm cự
chờ được cứu.
Hai chiếc UH-1H nặng nề đồ tiếp
liệu, thực phẩm và đạn dược vun vút quay máy rồi theo nhau cất cánh, bay
rà trên ngọn cây hướng về phía tây nam đèo Lao Bảo, qua khỏi Làng Vei, vượt
biên giới Việt-Lào dọc theo QL9, th́ hợp đoàn "rendez-vous" với hai AH-1 Cobra gunship
của Air Calvary HK bay hộ tống. Cả hợp đoàn bốc lên cao độ 5000 ft rồi
bay về hướng Nam của QL9.
Trên đường vào mục tiêu th́ thời
tiết tốt, chỉ có ít sương mù rải rác khắp nơi phía dưới tàu. Phía
bên trái là dăy núi Co Rọc của vùng A-Lưới âm u kỳ bí. Tôi nh́n thấy đường
ṃn HCM chạy dài từ Bắc xuống Nam với màu đất đỏ quạch giữa
chốn núi rừng xanh thẫm, rồi la thầm: "Cái này mà gọi là đường ṃn mẹ
ǵ? Rộng thênh thang như xa lộ Biên Hoà, mà có tới mấy đường chớ không
phải một". Nh́n về hướng trước mặt, tôi thấy B52 mới vừa trải
thảm xong gần chung quanh LZ, khói của hàng trăm quả bom c̣n đang ngùn ngụt, cho nên
chúng tôi cảm thấy an ḷng hơn, chắc là con cháu bác Hồ đă bị bom lửa nướng
chín như heo quay rồi. Đoàn tàu giảm cao độ để sửa soạn vào LZ th́
đại pháo pḥng không BV đủ loại từ nhiều cao điểm chung quanh bắn
lên như hoa đăng trên bầu trời, tôi nghĩ thầm: "Mẹ kiếp! không khác ǵ phim
Twelve O’Clock High trong đài TV Mỹ". Trong khi đó hai anh AH-1 Cobra Mỹ bắt đầu
tách khỏi hợp đoàn VNAF để xuống thấp ‘prep’ các vị trí pḥng không
của địch bằng cách phóng rocket chống biển người với làn khói màu hồng.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy
loại hoả tiễn này. Măi về sau KQVN mới có thứ đặc biệt đó, ban Vũ
Khí Dưới Đất mở đầu đạn ra th́ nó chứa hàng ngàn cây đinh, nh́n
giống như mũi tên xanh lè màu thép và nhỏ chỉ bằng cây tăm mà thôi, đầu
nó nhọn như mũi đinh đóng guốc, nhưng đuôi xoè ra bốn cánh như đuôi
bom. Thứ này khi trúng vào người th́ vết thương bít lại làm địch quân rất
dễ chết, cho dù không thấy chảy máu ǵ hết.
Những trái đạn đại bác pḥng
không bắn lên nổ từng đám khói như tụm bông g̣n càng lúc càng nhiều. Trong tần
số VHF, mấy anh Cobra la chói lói "Ground Fire! Ground Fire!", chỉ một lát sau hai anh Cobra đă
chuồn đâu mất tiêu chỉ c̣n lại hai chiếc Huey của VNAF ḿnh giống như
gà tồ vào làm mồi cho chó sói. Thế là mấy cây M60 của chúng tôi bắt đầu bắn
rải hai phía bên hông. Th/u Phúc đă vào băi đáp trước, nhưng ông bị một viên AK
bắn bể đầu gối, thân tàu cũng bị bắn trúng nhiều chỗ, đèn báo
nguy màu đỏ nổi lên quá nhiều nên Copilot phải tắt máy khi vừa chạm mặt
đất. Cả PHĐ chạy xuống giao thông hào ẩn trú với hy vọng chiếc trail
sẽ nhào xuống pick up, nhưng khi slick #2 vào final approach th́ băi đáp đang bị pháo kích
tơi bời. Tôi nh́n qua LZ kế bên dùng cho pháo binh th́ thấy xác trực thăng Mỹ nằm
ngổn ngang, có cả chiếc trực thăng khổng lồ CH-53 Sea Stallion của TQLC Mỹ
nằm kề một chiếc OH-6 (Loach), mấy chiếc này đă bị bắn rơi mấy
ngày trước đây khi ráng di tản mấy khẩu 155 ly.
Tr/u Đạt muốn cứu PHĐ nên cũng
ào vô hover kế bên cạnh chiếc lead slick đă tắt máy. Lúc đó pháo kích quá dữ dội
cho nên PHĐ chiếc kia không thế nào nhào lên chiếc trail của
ḿnh. Trong tích tắc, cơ phi, xạ thủ và một anh SĐ1BB đi theo đă đẩy
thực phẩm và đạn duợc supply ra khỏi tàu. Nh́n ra ngoài, tôi thấy ‘in-coming’
nổ gần LZ không ngừng, tiếng anh xạ thủ thét trong Intercom "Tôi bị thương
rồi".
Lúc này mà c̣n chần chờ là chết, ông Đạt
hét trong mike "Clear to take off", rồi dùng hết sức kéo collective stick, đẩy cần cyclic
stick ra phía trước để cất cánh, tôi nghĩ chắc là tàu sẽ bị over-torque
với sức kéo mănh liệt này. Tàu đă nhấc skid chúi mũi cất cánh về hướng
Nam của đồi, để lấy thêm sức nâng và tăng thêm tốc độ.
Những người từng bay vùng núi rừng
Đà Nẵng hay Pleiku đều biết qua cái cảm giác lạnh cẳng khi đáp hay cất
cánh từ những Hot LZ. Lúc đó tốc lực của chiếc trực thăng rất chậm
nên thường trở thành một cái bia lớn cho các đồng
chí con cháu Bác thực tập tác xạ. Một trong những cách để tránh né pḥng không của
‘HOT LZ’ là dùng phương pháp lá vàng rơi "High overhead auto-rotation" giảm cao độ
thật nhanh từ mút trên không để đáp xuống LZ cho được an toàn, nhưng
pilot phải là những tay đầy bản lănh và kinh nghiệm mới "thảy lỗ" được.
Cũng nên biết pḥng không VC vùng Hạ Lào là những tiểu đoàn kinh nghiệm từ miền
Bắc đưa vào, họ từng bắn rớt nhiều phản lực của HK trong những
cuộc không tập Linebacker I & II ngoài đó. Theo tin t́nh báo của HK cho biết có hơn
sáu tiểu đoàn đă được thuyên chuyển về vùng Hạ Lào để đương
đầu với không lực HK & VN. Pilot của KQ HK đều công nhận là hệ thống
AAA (Anti-Aircraft-Artilery) ở vùng Hạ Lào không thua ǵ ngoài BV. Kết quả là trên 300 trực
thăng đủ loại đă bị bắn rơi sau khi cuộc Hành Quân LS 719 chấm dứt.
Để tiếp tục câu chuyện, Kingstar
5 lúc này đă đạt tốc độ 50 knot, nhiều cục lửa bay về hướng
tàu không ngừng, một trong những viên đạn này (Tôi đoán cỡ 37 ly) lao vào tàu trúng
ngay hộp số rồi nổ tung phía sau lưng tôi. Lửa và khói bộc phát mănh liệt,
tôi nghĩ thầm: "Thôi thế là đời ḿnh chấm dứt ở đây, đành bỏ
xác ở nơi xứ lạ quê người rồi". Tất cả đèn phi cụ đều
bật đỏ, ông Đạt hét lên trên tần số Guard: "Mayday! Mayday!".
Tất cả
phi cơ HK hay VN tham dự Lam Sơn 719 luôn luôn để tần số khẩn cấp Guard
đề pḥng khi bị bắn rơi th́ những phi cơ đang bay trong vùng sẽ nghe để
cấp cứu.
Tr/U Đạt liền Autorotation xuống thung
lũng trước mặt, ông biết chần chờ là tàu có thể nổ tung. Tôi thấy
rừng cây càng lúc càng gần, trong tích tắc tàu rơi trúng ngay một khoảng rừng cây
nhỏ cái ầm, tàu không bị lật nhưng càng đáp (skid) đă xụm bà chè. Tôi liếc
nh́n chung quanh th́ thấy anh xạ thủ đă bị thương, liền nhào qua phụ với
người lính BB của SĐI kéo ảnh ra khỏi tàu. Tr/U Đạt và Th/U Bi cũng đă
giật jettison mà nhảy ra khỏi cửa. Chúng tôi chạy ra khỏi tàu chừng 15 thước
th́ lửa đă tràn tới b́nh xăng nên con tàu đă biến thành một ṿm lửa vĩ đại,
khói đen bốc lên trời ngùn ngụt.
Dân phi hành khi rớt
xuống đất cũng giống như cá ra khỏi nước nên ai cũng lo lắng,
chúng tôi đều rút súng ru-lô P.38 ra cầm tay, anh Bộ Binh th́ thủ cây M16 đề pḥng
mấy anh Vẹm thế nào cũng ḷ ṃ tới.
Chúng tôi biết
là ḿnh rớt không xa HH2 lắm, nhưng chỗ này nằm trong một ḷng thung lũng nên nh́n
chung quanh chỉ thấy rừng cây và đồi núi trùng điệp. Vẹt bờ bụi
gai góc mà đi một lúc lâu, chúng tôi đă thoáng thấy HH2, phần lớn là v́ nhờ thấy
khói đạn pháo kích bốc lên từ căn cứ này. Tuy đă xa chỗ tàu rớt hơn
nửa cây số mà quay lại vẫn c̣n thấy khói bốc lên đen cả một khoảnh
rừng.
Cây cối đă cao lớn, mà cỏ voi rậm
rạp cũng cao lút đầu người nên chúng tôi như mấy con gà con chui vào ruộng
lúa. Những tràng AK bắn hú hoạ lẫn tiếng hét: "Bắt lấy chúng nó, mấy thằng
giặc lái máy bay lên thẳng".
Tr/U Đạt
dẫn đầu, tôi và anh BB thay phiên d́u anh Thuận và Th/u Bi th́ đi đoạn hậu, cả
toán lếch thếch hướng về HH2. Mặc dầu không mở miệng nhưng trong
bụng th́ ai cũng lo rằng mấy anh Vẹm đang đuổi theo sát nút và sẵn sàng
làm thịt hết cả đám, v́ có tiếng động của nhiều người di chuyển
và nói giọng Bắc rặt. Thế là PHĐ chúng tôi âm thầm đi thật nhanh về hướng
đỉnh đồi hy vọng sẽ thoát khỏi ṿng vây đang xiết chặt.
Rớt máy bay trong rừng rậm mà không mất
mạng là một điều hy hữu, sau đó được sống sót rồi lội
rừng đi t́m quân bạn th́ chỉ nhờ may mắn và ơn trên mà thôi chứ không phải
là tài giỏi hay kinh nghiệm ǵ. Đây đúng là dịp để chúng tôi học Mưu Sinh
Thoát Hiểm, nghe tiếng tụi nó là ḿnh phải nằm im re. Trời lúc này đă quá trưa
nên rất nóng, chúng tôi vừa mệt vừa khát nước nhưng vẫn phải tiếp
tục leo trèo trên những mỏm đá đầy gai nhọn và giây rừng chằng chịt,
cả toán cứ thế mà đi theo trưởng toán là Tr/u Đạt.
Hơn hai tiếng
đồng hồ sau, chúng tôi đă leo được khoảng 2/3 ngọn đồi th́ ngửi
thấy mùi hôi thúi kinh khủng từ xác chết của VC trải khắp triền đồi,
họ đă bị các đồng chí thân yêu bỏ lại khi tấn công biển người
mấy ngày nay. Thân thể họ bị bom ḿn băm nát, AK47, B40 nằm lẫn lộn với
xác người. Khi trèo lên gần tới ṿng đai kẽm gai chằng chịt, ông Đạt
ra hiệu dừng lại v́ biết ḿn Claymore và lựu đạn đầy dẫy trong đó.
Lính gác và Bộ Chỉ Huy Tr/Đ3 đang dùng ống nḥm nh́n xuống nên họ la lên "Dừng
lại! Chúng tôi sẽ gởi người xuống hướng dẫn các anh lên". Giây lát sau,
một anh BB cẩn thận đi xuống tránh từng quả ḿn rồi dẫn chúng tôi đi
ngược về trên đỉnh đồi nơi có BCH Trung Đoàn. Đây là một cái hầm
kiên cố làm bằng bao cát chất lên rất dầy có lẽ đến hơn 10 thước,
lối vào hầm là một giao thông hào h́nh chữ chi có nhiều bao cát tấn hai bên.
Lúc đó khoảng 3 giờ chiều, khi vào
tới hầm Bộ Chỉ Huy th́ cả hai PHĐ gặp nhau. Th/u Phúc cho biết đă liên
lạc được với Hàm Nghi (Khe Sanh)và họ sẽ t́m cách cho trực thăng tới
để rescue. Chúng tôi người nào cũng hốc hác và lo sợ bởi v́ nếu PĐ213
không vào cứu, mà đêm nay c̣n ở đây th́ chỉ có nước đi đái mà thôi. Chính
ông Trung Đoàn Trưởng tiên đoán là căn cứ sẽ bị over-run tối nay, lính tráng
và cả Bộ Chỉ Huy đă cạn thực phẩm, nước uống và đạn dược
nên không c̣n cách nào khác là chờ đêm tối sẽ rút lui ra khỏi HH2, mà di tản như vậy
làm sao ông có thể bảo vệ chu toàn được cho PHĐ. Ông Đạt liền mượn
máy FM gọi về Hàm Nghi và liên lạc được với Đ/uy Kỳ, Trưởng
Pḥng Hành Quân PĐ213, ông cho biết sẽ đích thân vô cứu và ra lệnh cho anh em phải
ra sát băi đáp kể cả người bị thương.
Lúc này cả căn
cứ oằn ḿnh chịu những loạt pháo kích nặng nề, mặc dầu lúc đó về
hướng Đông Nam, một phi tuần F4 Phantom đang được FAC (Forward Air Control)
hướng dẫn dội bom. Tôi thấy rơ ràng khi nh́n qua công sự: Một chiếc F4 nhào
xuống thả một trái bom 500lb vào ngay chỗ chiếc trực thăng của tôi vừa
mới rớt, và khi nó ngóc lên, th́ cao xạ bắn lên đầy trời, chiếc F4 bị
trúng đạn và khói phun ra dưới cánh nhưng nó không rớt, mà ráng tiếp tục bay
về hướng Tây.
Năm 2003 vừa qua tôi có vào một Web Site
của cựu pilot OV-10 Bronco của KQHK, chúng tôi trao đổi email th́ một trong những
hoa tiêu đă từng bay Lam Sơn 719 cho biết là ngày đó trong lúc chiếc trail slick của
tôi bị bắn rớt, ông đang bao vùng và đă được chứng kiến cảnh
ngộ hy hữu này. Trước tiên, ông nghĩ là cả PHĐ bị chết hết v́ tàu
đă bốc cháy lúc c̣n ở trên không, nhưng một lát sau, quan sát viên là SQ/VN nh́n ống nḥm
th́ thấy cả PHĐ đều sống sót nên họ đă gọi về Hàm Nghi xin phi vụ
F4 để yểm trợ nếu có trực thăng đi cứu. Khoảng một tiếng
đồng hồ sau, th́ một phi tuần Phantom bay tới trên không phận của HH2, nhưng
đợi hoài không thấy t/t rescue nên FAC ra lệnh hai chiếc F4 dội bom xuống ngay địa
điểm chiếc t/t rớt để giết bọn VC đang bao vây chung quanh. Nhưng
thật chẳng may, một trong hai chiếc F4 bị trúng đạn nên họ phải kè nhau
ráng bay về căn cứ ở Thái Lan.
Măi tới 2g chiều, Tr/U Đạt nhận
được tin từ Hàm Nghi là sẽ có t/t vào rescue, anh ra lệnh 2 PHĐ phải chuẩn
bị sẵn sàng và d́u các anh em bị thương tới thật gần băi đáp. Lúc này,
chắc là các cháu ngoan của Bác đang ăn cơm hay đánh giấc ngủ trưa mà pháo
kích ngưng hẳn. Trời về chiều nóng như thiêu đốt (đúng là xứ Lèo,
đêm th́ lạnh ngày th́ nóng) chúng tôi khát nước nên quên cả đói, th́ cả bọn mừng
như điên khi nghe thấy tiếng phạch phạch quen thuộc từ hướng Đông
Bắc đi tới. Băi đáp đă nhỏ th́ chớ lại bị chiếc lead slick nằm
choán chỗ chỉ c̣n một miếng sân nhỏ như cái dạng háng, rất khó để
thảy lỗ. Chỉ ít giây sau th́ Đ/uy Kỳ vào không phận HH2, ông overhead-autorotate từ
trên cao như một con đại bàng xà xuống bắt mồi, nhưng thật không may ông
lại đáp lộn băi, nơi đó rất xa nơi anh em chúng tôi đang ẩn trú. Hovering
khá lâu mà không thấy ai chạy ra, ông đoán là ḿnh đáp lộn chỗ hoặc đă xảy
ra sự ǵ cho PHĐ rồi v́ lúc này đạn pháo kích nổ bời bời, ông bèn cất
cánh về hướng Tây Bắc đi sát ngọn cây mà ra khỏi HH2 với một con tàu trống
lỗng !!!
Bay ra khỏi HH2 chừng 5 phút, ông Kỳ lại
liên lạc với Trung Đoàn 3 lần nữa và xin nói chuyện với PHĐ, ông đă hỏi
Tr/u Đạt nhiều chi tiết để biết chắc là chúng tôi đang ở chỗ
nào. Thế rồi ông quay mũi tàu 180 độ ngược trở lại và đi ride-smooth
sát đọt cây mà trở lại LZ, đại pháo pḥng không c̣n làm ǵ được nữa
nên tụi VC nổ AK như bắp rang với hy vọng sẽ bắn rơi chiếc máy bay
lên thẳng đơn côi này. Phải tài ba lắm nên với tốc độ như thế
mà không cần đảo ṿng, ông Kỳ đă hover sát giao thông hào của tụi tôi, chúng tôi đẩy
được thương binh lên tàu rồi 6 anh em c̣n lại phóng vào thân tàu nhanh như sóc,
việc xẩy ra rất lẹ nhưng cũng có ít nhất 4 hay 5 binh sĩ núp gần đó
nhảy lên trốn ra khỏi căn cứ này. Trọng pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly giă
tới tấp vào HH2 không ngừng, v́ đề-lô Vẹm biết là tt cấp cứu đang
trên băi đáp. Khi biết là anh em lên đuợc đầy đủ, ông Kỳ cất cánh
rất khó khăn v́ tàu chở quá nặng lại gió xuôi, ông cho tàu chúi mũi ra phía thung lũng
trước mắt để lấy tốc độ và từ đó ride-smooth đi ra khỏi
HH2.
Mấy anh Vẹm
dưới chân đồi đồng loạt tiễn đưa bằng những tràng AK ḍn
như pháo Tết, nhiều viên trúng ngay thân tàu nhưng cũng may không nhằm chỗ quan trọng.
Chúng tôi nửa mừng nửa sợ: Mừng v́ đang ra khỏi chỗ đầy nguy hiểm,
sợ là v́ tt có thể trúng đạn và ḿnh lại rớt xuống lần nữa. Trong tàu
chật cứng đầy người như hộp cá ṃi sardine, tôi chỉ biết nhắm
mắt cầu trời cho qua giây phút hiểm nghèo này.
Hết nghe tiếng đạn bắn, ông
Kỳ biết là đă an toàn nên kéo tàu lên cao và đổi hướng bay về Khe Sanh. Khoảng
15 phút bay, tàu đă tới biên giới vùng QL9/Lao Bảo, cả PHĐ ai cũng mừng rỡ
v́ biết là ḿnh lại được sống thêm một ngày nữa, c̣n tôi cảm thấy
như ḿnh vừa mới hồi sinh. Với tuổi trẻ như tôi (20 tuổi) mà đă phải
va chạm với tử thần mấy lần trong một tuần lễ th́ quả là cuộc
đời ḿnh đen như mơm chó. Tôi tự an ủi: Ai cũng có số phần cả, lo
lắng mà làm quái ǵ .
Tàu vừa đặt càng skid xuống băi đáp
Hàm Nghi, th́ từ Trung Tâm Hành Quân nhiều phóng viên trong và ngoài nuớc đă đổ xô ra chụp
h́nh và phỏng vấn Phi Hành Đoàn, tôi lủi thủi đến bên cạnh anh lính BB đang
đứng gác, gật đầu chào rồi tháo nắp b́nh tông của anh ta mà ngửa cổ
uống vội vàng đến nỗi nước tràn đầy lên mặt.
xxxxxx
Lời Cuối Bài:
Cuối năm 2003, tôi có điện thoại
cho cựu Tr/T Kỳ đang ở Virginia để vấn an thăm hỏi, khi đề cập
đến phi vụ ngày ấy, th́ được ông cho biết thêm chi tiết này:
-Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm (Tư Lệnh
HQ LAMSON 719) khi hay tin hai chiếc VNAF t/t bị bắn rơi, đă ra lệnh không được
gởi t/t vào cấp cứu nữa v́ quá nguy hiểm, chỉ thí thêm máy bay mà thôi. Ông Kỳ đă
không tuân lệnh trên, âm thầm để Cơ Phi, Xạ thủ và Copilot ở lại Khe Sanh,
một ḿnh cất cánh bay vào HH2 mà chẳng có Gun-ship, hay Cobra nào đi hộ tống cả.
Nhờ tài năng,
sự hy sinh và can đảm của ông, mà mấy anh em chúng tôi c̣n sống cho tới ngày hôm
nay. Anh Đạt hiện nay cư ngụ ở Cali, anh Phúc (được giải ngũ
năm 71 v́ ‘inap’ bể đầu gối) cư ngụ tại Arizona. Th/u Bi của
PĐ233 đă tử trận ở Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngăi năm 1972.
Tôi xin cảm ơn những cấp trên:
KQ Đạt, KQ Phúc, và KQ Kỳ đă giúp nhiều chi tiết để đóng góp cho hồi
kư này được thêm phần đầy đủ và chính xác.
Cựu Cơ Phi T/T Thông, SĐ1KQ/KĐ51/PĐ239
Subject: |
Phi vụ "C̣ Trắng" và những nấm mồ c̣n lại |
|
Author: |
comay |
|
LTS: Vào năm 1961, Không Quân Việt Nam có hai chiếc C-47 sử
dụng riêng cho những phi vụ đặc biệt thả các toán biệt kích thâm nhập
lănh thổ Bắc Việt, trong đó Trung Úy Phan Thanh Vân là một trong những trưởng
phi cơ. Phi vụ "C̣ trắng" nói tới ở đây đă được Phan Thanh Vân viết
lại trong hồi kư "Người về từ cơi chết". (Bài viết của “C̣ Trắng”
Phan Thanh Vân, kể lại mọi chi tiết từ khi máy bay bị cháy và rớt xuống đất,
chúng tôi sẽ đăng lại sau bài viết này). Sở dĩ các phi vụ này được
đặt tên "C̣ Trắng" v́ hai chiếc C-47 đă được tẩy xóa màu cờ, các huy
hiệu, chỉ để lại toàn thân máy bay một màu nhôm trắng. Gần đây
Lư Tưởng Úc Châu nhận được một số tài liệu cũng như nhiều
h́nh ảnh liên quan đến phi vụ nói trên, Ban Biên Tập xin đúc kết các tài liệu
này với mục đích phổ biến thêm chi tiết về số phận của phi hành
đoàn, và cũng để tưởng nhớ, tri ân những chiến sĩ Không Quân đă
thầm chiến đấu trong bóng tối, đă hy sinh thân ḿnh để thi hành những phi
vụ tối mật, ra đi không hẹn ngày về. LT-UC
***
Phi
vụ C̣ Trắng thực hiện giữa năm 1961 gồm phi hành đoàn 7 người của
Không Quân và 3 biệt kích quân. Thành phần phi hành đoàn: Trưởng phi cơ: Trung úy Phan
Thanh Vân Hoa tiêu phó: Trung úy Phan Khắc Thích, Thiếu úy Trần Minh Tâm Điều hành viên:
Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu Cơ Khí Viên: Thượng
sĩ I Phạm Văn Đăng Vô Tuyến Viên: Trung sĩ Nguyễn Văn Nở Các biệt
kích quân gồm: Thượng sĩ Trần Phúc Lộc, Thượng sĩ Đinh Như Khoa,
và Trung sĩ Nguyễn Văn Tiết.
* * *
Vào đúng Ngày Không Quân VNCH (1 tháng 7) năm
1961, chiếc “C̣ Trắng” cất cánh với nhiệm vụ tiếp tế cho một
toán biệt kích đă được thả trước đây, và phi cơ đă bị rớt
vào lúc 1 giờ 15 phút sáng ngày 2 tháng 7 tại xă Cồn Thoi, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh B́nh.
Theo lời kể lại của ông Phạm Lâm, trùm họ đạo Kim Sơn, khi ông
đi giăng câu trên cánh đồng ngập mặn ven biển, cách khu vực dân cư khoảng
5 cây số, th́ vào lúc hơn nửa khuya, ông nghe tiếng động cơ máy bay, nh́n lên trời
th́ thấy một chiếc máy bay đang bốc cháy và lao xuống, sau đó tiếp tục
cháy trên mặt đất. Đến gần sáng, tự vệ nông trường B́nh Minh mới
ra đến chỗ máy bay rớt, bắt giữ sáu người c̣n sống, tất cả
đều bị thương; một người khác c̣n tương đối khoẻ, sử
dụng thuyền cao su bơi trốn nhưng cũng đă bị du kích xă kế bên bắt
giữ. Ba người thiệt mạng tại chỗ là: Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn
úy Phạm Trọng Mậu và Trung sĩ Nguyễn Văn Nở. Trong số này, hai người
chết cháy v́ bị kẹt trong phi cơ nên hài cốt không c̣n đầy đủ, và một
người xác c̣n nguyên vẹn. Tất cả được chôn gần chỗ máy bay rơi
(không có ḥm).
* * *
Trong số bảy người c̣n sống và bị bắt, Thiếu
úy Tiêu Huỳnh Yến v́ bị thương nặng nên một ngày sau đă chết tại
trạm xá của nông trường B́nh Minh và đă được ông Phạm Lâm đích thân
khiêng đi chôn (cũng không có ḥm). Sáu người c̣n sống được Công An đưa
về Hà Nội bằng xe tải và bị giam tại Hỏa Ḷ. Các nhân chứng có nhiệm
vụ áp giải sáu người này kể lại rằng khi về đến Hà Nội th́
tất cả vẫn c̣n sống, nhưng đến khi Cộng Sản Bắc Việt đưa
ra ṭa xét xử th́ chỉ c̣n có 3 người là các anh Phan Thanh Vân, Đinh Như Khoa và Phạm
Văn Đăng, c̣n anh Trần Minh Tâm th́ đă chết vào ngày 4/7/1961, anh Nguyễn Văn Tiết
chết ngày 2/8 và anh Trần Phúc Lộc đă chết ngày 28/11 -tất cả đều chết
tại bệnh viện 108 Hà Nộị Và cả ba đă được Hà Nội chôn cất
có mộ bia tử tế! Sở dĩ ba người này được chôn cất tử
tế là v́ đây là lần đầu tiên một phi cơ thả biệt kích của miền
Nam ra Bắc hoạt động đă bị rớt nên Hà Nội muốn làm lớn chuyện
để công bố cho quốc tế biết. Và cũng chính v́ thế, CSBV đă “chu đáo”
cho Công An đưa ḥm về Kim Sơn, đào xác Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến lên bỏ vào
ḥm để chôn lại! Cũng nên biết trước phi vụ “C̣ Trắng” này
đă có nhiều toán biệt kích bị CSBV bắt giữ như các toán Caster, Echo, Dido..., nhưng
v́ không có xác phi cơ nên họ chưa muốn làm lớn chuyện, v́ thế danh tính của
các biệt kích quân đă được họ giữ kín; tất cả đều bị giam
giữ hơn 10 năm, có người măi tới năm 1976 mới được thả.
*
* *
Lần này, với bằng chứng quả tang, Hà Nội đă ra sức thổi phồng
vụ án, thông báo cho các giới chức ngoại giao, đưa ba người c̣n sống ra
xét xử công khai tại Hà Nội và triển lăm các tang vật tại Ninh B́nh. V́ xét xử
công khai, các anh đă có án tù rơ ràng: Trung úy Phan Thanh Vân 7 năm tù, Thượng sĩ Phạm Văn
Đăng 3 năm, Thượng sĩ Đinh Như Khoa 15 năm. Các anh đă bị giam tại
trại Bắc Bạc (Ba V́, Sơn Tây) và sau đó chuyển đến trại Phố Lu (Lào
Cai). Tới năm 1971, sau 10 năm tù giam và quản thúc, Trung úy Phan Thanh Vân đă được
Hội Hồng Thập Tự Quốc tế can thiệp trả tự do và sang Pháp đoàn
tụ với gia đ́nh.
* * *
Cho tới nay, có nhiều giả thuyết về nguyên
nhân đă khiến chiếc “C̣ Trắng” bị rớt. Phối hợp hồi kư của
Trung úy Phan Thanh Vân (...máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ
hay bất cứ một âm thanh ǵ...) cũng như lời của các nhân chứng - cả dân
chúng lẫn Công An địa phương – th́ máy bay đă tự bốc cháy và rớt.
Tuy nhiên, CSBV v́ muốn thổi phồng sự việc nên đă tuyên truyền là phi cơ bị
súng pḥng không bắn hạ; và hiện nay họ vẫn trưng bày các hiện vật c̣n sót
lại của chiếc C-47 nói trên tại Bảo Tàng Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân tại
Hà Nội, để chứng minh cho chiến công “tưởng tượng” của
ḿnh! Điều đáng tiếc là một vài tác giả Mỹ cũng căn cứ vào tuyên
truyền của CSBV để viết rằng chiếc C̣ Trắng nói trên bị pḥng không bắn
hạ. Về nguyên nhân đă khiến phi cơ tự bốc cháy, có giả thuyết cho rằng
do nội tuyến phá hoạị Khoảng cuối thập niên 1980, một tay nội tuyến
VC đă kể lại trên một tờ báo ở Sài G̣n rằng vào năm 1961, anh ta là lính bảo
tŕ phi cơ của Không Quân miền Nam và đă gài “pan” vào một phi cơ chở biệt
kích ra Bắc và phi cơ này đă bị rớt. (‘Pan’ này được gài trong bộ
phận nhiên liệu của động cơ, khi tới không phận Bắc Việt, nhiên
liệu bị ṛ rỉ tiếp xúc với sức nóng của động cơ đă khiến
phi cơ bốc cháy). Nhưng dù sao, trước sự kiện có vô số “chiến
công tưởng tượng” được thêu dệt sau khi CSBV chiếm được
miền Nam, người ta cũng phải đặt dấu hỏi về “thành tích”
của tay thợ máy nội tuyến nàỵ
* * *
Về số phận của các
ngôi mộ của phi hành đoàn, trước hết nói về ba người bị thiệt
mạng tại chỗ là: Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu và Trung
sĩ Nguyễn Văn Nở. Ngày ấy, tất cả được chôn vội vă gần
chỗ máy bay rơi, không xác nào có ḥm. Tới năm 1980, một người dân khi đào
ao đă đào được một hài cốt c̣n nguyên vẹn, mặc áo màu đen, trên vai
áo có phù hiệụ Cha xứ của nhà thờ đá Kim Sơn cho bốc hài cốt lên đem
về nhà thờ dự tính đưa vào miền Nam cải táng, nhưng đă bị công an
xă giữ lại và cho chôn tại nghĩa địa xă. Người giáo dân trực tiếp
bốc mộ đă bị Công An giam giữ hơn 3 tháng. Riêng cha xứ sau này vào miền Nam,
sống ở nhà thờ Phát Diệm ở G̣ Vấp, Sài G̣n. Phối hợp lời kể
của các nhân chứng năm 1961 và sự mô tả của chủ nhà - tức người
đào ao sau này – người ta tin rằng hài cốt nói trên là của Trung sĩ Nguyễn
Văn Nở, v́ Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu bị kẹt trong
phi cơ, chết cháy nên hài cốt không c̣n nguyên vẹn. Như vậy, có thể tạm thời
đi tới kết luận hiện nay cố Trung sĩ Nguyễn Văn Nở đang yên
nghỉ tại Kim Sơn, Ninh B́nh, c̣n hài cốt của Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm
Trọng Mậu th́ vẫn c̣n nằm đâu đó dưới mặt đất, gần cái
ao nói trên. Người chủ nhà cũng kể lại rằng cho tới nay, thỉnh thoảng
oan hồn của hai người vẫn c̣n hiện về ngồi ở gần bờ ao của
nhà họ. Mộ của Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến – người đă chết
tại trạm xá của nông trường B́nh Minh, được ông trùm Phạm Lâm chôn và sau
đó được CSBV đào lên bỏ vào ḥm chôn lại - th́ hiện nay vẫn được
ông chăm sóc. Về ba người “may mắn” được CSBV chôn cất tử
tế, th́ hài cốt của Thiếu úy Trần Minh Tâm đă được gia đ́nh cải
táng đem về miền Nam, chỉ c̣n lại mộ của hai biệt kích quân - Thượng
sĩ Trần Phúc Lộc, và Trung sĩ Nguyễn Văn Tiết (với tên tuổi rơ ràng trên
mộ bia).
* * *
Trong số thân nhân của phi hành đoàn “C̣ Trắng”, một
số nhỏ may mắn được biết về việc Bộ quốc Pḥng Mỹ “bồi
thường”, đă làm thủ tục và được hưởng quyền lợị
Tuy nhiên đa số đă thất tung, và cho tới nay các cá nhân cũng như Hội đoàn
Không Quân không có một manh mối nào để có thể liên lạc giúp đỡ, hướng
dẫn cách làm thủ tục. Chẳng hạn trường hợp của em Phan Khắc
Đức (năm nay đă 48 tuổi), con trai của cố Trung úy Phan Khắc Thích. Niên khóa
1973-1974, Đức học lớp 9 tại Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, mẹ -
tức phu nhân của Trung úy Thích - là y tá phục vụ trong phi trường TSN. Sau biến
cố tháng 4/1975, gia đ́nh phải dọn ra cư ngụ tại một hẻm nhỏ tại
Ngă Ba Ông Tạ, Đức phải nghỉ học đạp xích lô để sinh nhai... Từ
đó tới nay, không c̣n một mối liên lạc nào có thể t́m lại được gia
đ́nh hay thân nhân của cố Trung úy Phan Khắc Thích để được Bộ Quốc
Pḥng Mỹ bồi thường!
* * *
Thay lời kết, chúng tôi hy vọng, dù rất
mong manh, sẽ có chiến hữu hay vị độc giả nào đó biết được,
hoặc rồi đây may mắn t́m ra tung tích của gia đ́nh hoặc thân nhân của phi hành
đoàn “C̣ Trắng” và các chiến sĩ Biệt kích tham gia phi vụ, để thông
báo về t́nh trạng những ngôi mộ của người thân, cũng như những quyền
lợi mà họ xứng đáng được hưởng do công lao xương máu của
những người đă nằm xuống cách đây 45 năm. Trong trường hợp
sự việc tốt đẹp ấy xảy ra, Ṭa Soạn Lư Tưởng - Úc Châu sẽ
cung cấp chi tiết để t́m mộ – những chi tiết mà chúng tôi không tiện
phổ biến trên trang báo nàỵ
Melbourne, tháng 12/2006
Ban Biên Tập LT-UC(tổng hợp theo các tài liệu)
* * *
Các chi tiết và
tài liệu viết thêm: * Theo hồi ức của Trung Tá KQ N.Ụ, trước phi vụ
của C̣ Trắng của Trung úy Phan Thanh Vân đă có một chiếc C-47 cũng thi hành nhiệm
vụ thả biệt kích quân và đă mất tích trên không phận Bắc Việt. Phi hành đoàn
gồm có: Hoa tiêu: Trần Văn Hội và Lê Chí Nguyện Điều hành viên:
Nguyễn Đăng Lợi Vô tuyến phi hành: Đức (không nhớ họ) Cơ
phi: (không nhớ tên) Ngoài ra c̣n có một chiếc C-123 trong khi bay đêm thực tập
thả biệt kích tại núi Sơn Chà gần Đà Nẵng đă bị tai nạn và toàn bộ
phi hành đoàn đă hy sinh, gồm: Hoa tiêu: Lê Tuấn Kiệt và Hồ Văn Ứng
Kiệt Điều hành viên: Lê Lănh Hưng - Vương Văn Chức - Nguyễn Tấn
Tập Cơ phi: Đạt (không nhớ họ) Ngoài ra c̣n một huấn luyện
viên Hoa Kỳ. Sau tai nạn này, Hoa Kỳ đă thuê mướn thêm các phi hành đoàn
Trung Hoa (Đài Loan) để thi hành các phi vụ thâm nhập lănh thổ Bắc Việt. *
Theo cuốn "Spies and Commandos" của hai tác giả Kenneth Comboy và Dale Andradé (do sưu tầm viên
Phạm Anh Tài cung cấp), ngày ấy chỉ có độc nhất một chiếc C-47 C̣ Trắng
và được lấy một ngụy danh là "Vietnamese Air Transport" gọi tắt là VIAT, lúc
đó do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy, và đă có 20 phi công t́nh nguyện thi hành những
phi vụ này dưới mật danh “Haylift”. Mặc dù là các phi công dày dạn
kinh nghiệm trong các phi vụ chuyển vận, nhưng khi bay ra phía Bắc họ cần phải
được hướng dẫn thêm. Bởi khi bay ra Bắc, phi hành đoàn sẽ phải
bay những phi vụ kéo dài tưởng như vô tận, bay ở một cao độ thấp
đến địa điểm thả biết kích mà không hề được trang bị
các phi cụ hiện đạị Đó là chưa kể yếu tố thời tiết xấu
vào mùa mưa lớn, địa h́nh núi non hiểm trở đă tạo thành một phi tŕnh nguy
hiểm và tồi tệ nhất trên thế giớị Vẫn theo hai tác giả này, phi vụ
C̣ Trắng nói trên có nhiệm vụ thả xuống tiếp tế cho toán Castor (đă được
thả xuống Bắc Việt khoảng một tháng trước). Trung úy Phan Thanh Vân cất
cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi xế chiều, sau khi tiếp tế
thêm nhiên liệu tại phi trường Đà Nẵng, phi cơ trực chỉ ra Bắc, không
hành th́ chỉ nh́n qua cửa sổ bay theo địa h́nh địa vật dưới đất
xuyên qua các rặng núi thấy được qua ánh trăng để t́m ra băi thả hàng mà
toán Castor đánh dấu - phi tŕnh này trước đây đă được sử dụng
khi thả dù các toán Castor và Didọ Thật sự th́ toán này đă rơi vào tay giặc,
và người trưởng toán đă bị CSBV ép buộc gởi tín hiệu về BUGS, một
trạm tiếp vận truyền tin ở Phi Luật Tân để báo tin toán vẫn an toàn và
cần phải được tiếp tế ở một địa điểm do họ
chỉ định. Bốn ngày sau khi liên lạc, chiếc C̣ Trắng đă lên đường
thi hành nhiệm vụ và đă rơi vào bẫy của địch. CSBV đă bố trí sẵn
súng pḥng không tại đảo Ḥn Me, một đảo nhỏ nằm cách đất liền
6 cây số ngoài bờ biển Ninh B́nh. Kết quả, phi cơ đă bị bắn nát phần
đuôi, bốc cháy và rơi trong đất liền khoảng 20 cây số.
*
* *
Ở đây chúng tôi không bàn căi về việc vào năm 1961, có 1 hay 2 chiếc
C-47 được sử dụng cho các phi vụ “C̣ Trắng” (bởi có thể hai
tác giả Kenneth Comboy và Dale Andradé đă chỉ căn cứ vào sự kiện: lúc nào cũng
chỉ có một chiếc “C̣ Trắng” SẴN SÀNG ĐỂ SỬ DỤNG); cũng
không b́nh luận về sự việc toán biệt kích bị CSBV cưỡng bách hợp tác,
mà chỉ nói về chi tiết mâu thuẫn liên quan tới việc phi cơ bị rớt. Tất
cả các nhân chứng (dân làng, công an về hưu) đều kể lại rằng họ
không hề nghe thấy tiếng nổ, mà chỉ thấy phi cơ tự bốc cháy, và bay từ
đất liền hướng ra biển. Nếu quả thực phi cơ “bị
bắn nát phần đuôi, bốc cháy và rơi xuống đất liền...” như cuốn
Spies and Commandos đă viết th́ chắc chắn tất cả mọi người trên phi cơ
đă phải chết tan xác chứ không thể chỉ có 3 người chết tại chỗ
mà thôi! Bên cạnh đó, nếu phi cơ rớt ở đất liền “cách bờ
biển khoảng 20 cây số” như sách đă viết, th́ làm sao có việc “một
người khác c̣n tương đối khoẻ, sử dụng thuyền cao su bơi trốn
nhưng cũng đă bị du kích xă kế bên bắt giữ” theo như lời kể
của ông trùm họ đạo Kim Sơn?! Thành thử, chúng tôi cũng nhân tiện xin
phép được lưu ư quư độc giả một điều: không phải bất cứ
cuốn sách nào của “thế giới tự do” viết về chiến tranh Việt
Nam cũng chính xác, cũng đáng tin. Nhất là những cuốn viết trong những năm
sau này, thường tham khảo tài liệu, sử dụng dữ kiện của phía CSVN. Mà
“tài liệu, dữ kiện” của CSVN chính xác tới mức nào, chúng ta chỉ cần
nhớ lại trong thời gian cao điểm của các cuộc oanh tạc Bắc Việt,
tổng số “máy bay của đế quốc Mỹ bị bắn hạ” trong một
ngày, được loan truyền trên đài phát thanh nhà nước và các báo của đảng,
thường NHIỀU HƠN tổng số phi cơ Hoa Kỳ tham dự các trận oanh kích
trong ngày hôm đó! Sự kiện lố bịch này, sau khi được tạm thời
“cởi trói” vào năm 1986, chính một số nhà văn miền Bắc đă đem
ra để diễu cợt.
Trích Quân sử
|
Subject: |
Những cánh chim lià đàn |
|
Author: |
xavuong12 |
|
Những Cánh Chim Ĺa Đàn
Năm 1972, bọn Cộng Sản (CS) mở những trận
đánh lớn trên vùng đất thân yêu Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), từ Vùng I cho đến
Vùng IV Chiến Thuật, CS đánh phá khắp nơi hầu chiếm đất giành dân . Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH) với những đơn vị thiện chiến như
Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, các Sư Đoàn Bộ Binh,
Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân đă anh dũng chống trả, và chiến thắng
những trân tấn công khốc liệt của bọn CS tại những chiến trường
mà bọn chúng đă chọn lựạ
Vùng IV chiến thuật với những trận
đánh lớn tại các địa danh như Cai Lậy, Mỹ Thiện, Mỹ An, Mộc
Hóa, Chương Thiện, Cà Mau, Năm Căn, Đầm Dơi . Tất cả quân binh chủng
Quân đoàn IV được lịnh cấm trại ,ứng chiến 100%, phép thường
niên đều bị hủy bỏ. Chỉ riêng Không Quân, Chuẩn tướng Nguyễn huy
Ành, Sư đoàn trưởng Sư đoàn IV Không Quân, đă bảo đảm với tướng
tư lệnh Quân đoàn IV Ngô quang Trưởng ,"Không Quân sẽ cung ứng đầy
đủ những phi vụ yểm trợ cho Quân đoàn khi yêu cầu". V́ vậy anh
em trực thăng đi bay liên tục năm ngày, được nghỉ ba ngày và có trực
thăng đưa đón từ Cần Thơ về Saigon . Lúc bấy giờ tinh thần chiến
đâu của anh em trực thăng lên rất cao, chúng tôi không từ chối một phi vụ
nào mà quân bạn (bộ binh) yêu cầu để không phụ ḷng vị chỉ huy tài ba Nguyễn
huy Ánh, con chim đầu đàn ngành trực thăng, đă ưu ái chăm sóc từ tinh thần
đến nếp sống anh em Không Quân Sư đoàn IV nói chung và anh em trực thăng nói riêng.
Thời
gian nầy tôi đang phục vụ phi đoàn 211, Thần Chùy, một phi đoàn kỳ cựu
trong ngành trực thăng với những hoa tiêu dày dặn kinh nghiệm chiến trường
với hàng ngàn giờ bay trên H-34 và UH-1H. Chúng tôi (PD211) cùng với các phi đoàn bạn 217.225,
và 227 đă thay phiên nhau đổ quân, tải thương, và tiếp tế cho các sư đoàn
7,9,21, và Biệt động quân (BDQ) ngày đêm đánh đuổi bọn CS đem an lành cho
dân chúng miền Tâỵ Lúc bấy giờ, bọn CS dùng đất Cao Miên làm bàn đạp tiến
về phía Nam để uy hiếp quận Mỹ Thiện , Mỹ An, và sau đó sẽ chiếm
quận Cai Lậy hầu cắt ngang Quốc lộ 4 con đường huyết mạch
từ Saigon xuống Cần Thơ.
Biết được ư đồ của bọn
CS, Quân đoàn IV đă cho thiết lập căn cứ hỏa lực Vỉnh Nhi nằm cận
Quốc lộ 4 giữa quận Cái Bè và Cai Lậỵ Đồng thời căn cứ nầy
cũng là bộ chỉ huy tiền phương của một Liên đoàn Biệt động
Quân và Tr/tá Ḥa là Liên đoàn trưởng. Chiến trường tại Vùng IV rất sôi động
, hàng ngày có hai phi đoàn trực thăng làm việc với các đơn vị bộ binh.
Một tại chiến trường Mộc Hóa, Cai Lậy , hay Mỹ Tho, thuộc vùng trách
nhiệm của hai sư đoàn 7 và 9 Bộ binh. Phi đoàn c̣n lại th́ chịu mặt trận
Chương Thiện, Cà Mau, Rạch Giá , hoặc Hà Tiên vùng trách nhiệm sư đoàn 21, và
Biệt khu 44. Hai phi đoàn c̣n lại làm việc cho các tỉnh,quận lo việc tiếp tế,
tải thương....
Sau khi trở về từ Saigon, phi đoàn 211 nhận lệnh
yểm trợ liên đoàn BDQ hành quân giải tỏa áp lực CS đang uy hiếp chung quanh
quận Mỹ Thiện, và phi đội chúng tôi được giao phó trọng trách nầỵ
Hợp đoàn hành quân gồm một C&C , ba trực thăng vơ trang (gunship), và năm trực
thăng đổ quân (slick). Phi hành đoàn như sau : -C&C : Th/tá Lộc + Th/U Hồng -Gun
1 : Tr/u Hùng 1 + Th/u Hùng 4 -Gun 2 : Th/u Xuân + Th/u Chừng + Tư + Tuấn -Lead slick : Tr/u Thanh
+ Th/u Trung
Sau khi nghe quân bạn thuyết tŕnh t́nh h́nh chiến sự nơi bải đổ
quân, chúng tôi được biết bọn CS đang chuẩn bị đánh quận Mỹ
Thiện, và nhiệm vụ của chúng tôi là đổ BDQ ngoài ṿng đay quận Mỹ Thiện
theo trục Nam Bắc giải vây áp lực địch. Tôi c̣n nhớ trên đường ra
phi cơ , Tr/tá Ḥa , BDQ, có nói với Th/tá Lộc (C&C) : "Theo tin t́nh báo cho biết ,t́nh
h́nh tại nơi đổ quân rất yên ổn. Dân chúng đang làm ruộng, anh và tôi bay vào
đó quan sát trước". Hợp đoàn trực thăng quay máy và chờ lệnh
C&C. C&C ra lệnh như sau: "Gunships theo C&C vào vùng hành quân, slicks bay đến
địa điểm bốc quân ". Chúng tôi hai gunships cất cánh theo C&C vào nơi
đổ quân để quan sát , dọn bải đáp an toàn trước khi đưa slicks
vào bải đổ quân. Trên tàu C&C có Tr/tá Ḥa, LDTBDQ, Tr/tá cố vấn Hoa Kỳ, sĩ quan
pháo binh (đề lô), và vài anh em BĐQ .
Trên đường bay từ căn cứ Vỉnh
Nhi vào quận Mỹ Thiện với cao độ khoảng 500 bộ , chúng tôi (gunships) thấy
đàn ông , đàn bà đang lui cui đào đất làm ruộng không khí rất thanh b́nh.....không
thấy dấu vết khả nghi có cuộc chuyển quân hay phục kích của CS...tuy nhiên
chúng tôi vẩn trong tư thế chiến đấu, các khẩu miniguns sẵn sàng nhả đạn.....Tất
cả vô tuyến đều im lặng. Chợt chúng tôi nghe C&C qua tần số nội bộ
: "Tôi đă bay vào quận Mỹ Thiện và trên đường trở ra, dân chúng đang
làm ruộng , gunships coi chừng bắn lầm".
Chúng tôi theo dỏi, và thấy tàu C&C
bay trở ra từ quận Mỹ Thiện th́....đột nhiên chúng tôi nghe trên tần số
nội bộ : "Súng bên trái, bên phải bắn đi....Ơi ới cứu tôi với......!!!!!!".
Đó là tiếng kêu cứu của Th/ tá Lộc trên tần số.......Chúng tôi gun2 đă thấy
tàu C&C mất cao độ, đầu phi cơ bốc ngât lên cao cho biết tàu đă giảm
tốc độ (airspeed), cánh quạt đuôi chạm đất trước, và sau đó nguyên
thân tàu rớt xuống đất như ḥn đá rơị Bụi mù bay tứ phía, chúng tôi
liền bay thẳng đến nơi phi cơ rớt để yểm trợ và đồng
thời cứu phi hành đoàn C&C. V́ bay cao độ thấp khoảng 5-10 bộ nên chúng
tôi không thể bắn rockets được, chỉ dùng miniguns yểm trợ mà thôị Chúng
tôi bay ṿng tṛn trên đầu C&C, và hai anh Tư, Tuấn đă xử dụng hai khẩu miniguns
bắn ṿng quanh yểm trợ chờ quân tiếp viện. Trong khi đó gun1 liên lạc với
lead slick chở quân đến nơi phi cơ rớt để tiếp cứụ Trên đường
bay vào để tiếp cứu, lead slick bị 12ly7 bắn trực xạ, tàu trúng đạn
nơi b́nh xăng, xăng bay tứ tung.... Tr/u Thanh trúng mảnh đạn dưới càm nên
không thể tiếp tục phi vụ. Đoàn slicks vẩn tiêp tục phi vụ chở lính BDQ
vào nơi tàu C&C rớt để tiếp cứu, nhưng v́ bị bắn rát quá nên phải
quay trở ra không vào bải đáp để tiêp cứu được.
Gun2 tiếp tục
bay ṿng tṛn trên đầu C&C, hai súng miniguns nhả đạn như điên, tôi thấy máu
của bọn CS bị bắn văng lên và chạm phía ngoài phần plastic trắng (bubble) dày
đặc.......chứng tỏ bọn CS đă nằm chờ để phục kích quân bạn.
Chúng tôi vẩn bay, súng cứ bắn, và chờ đợi quân bạn vào phụ giúp chúng tôi
tiếp cứu phi hành đoàn C&C. Không nghe súng bên phải bắn, tôi quay lại phía sau (lúc
đó Th/u Xuân đang bay), thấy anh Tuấn nhảy vào giữa phi cơ, bàn tay trái nắm
lấy bàn tay phải tôi vội hỏi : "Tuấn bị sao đó?". "
Em bị bắn mất lóng tay rồi "....Anh b́nh tỉnh trả lờị
Bay
trên đầu bọn CS đang nằm phục kích, chúng tôi nhờ vào hai khẩu miniguns để
bảo vệ cho ḿnh.... bây giờ mất đi một tay súng th́ khó được an toàn. Quân
tiếp viện đâu không thấy, gun1 đang bận liên lạc với slicks và báo cáo t́nh
h́nh về Sư đoàn....chúng tôi không tự bảo vệ cho ḿnh được nửa....Sau
khi được biết quân bạn không thể vào tiếp cứu phi hành đoàn C&C được,
chúng tôi chỉ c̣n xử dụng khẩu súng bên trái mà thôi nên khó mà kéo dài cuộc chiến, thêm
vào đó Tuấn đang bị thương nên tôi đă nói với Th/U Xuân :" Tuấn bị
thương, chúng ta rời vùng sẽ trở lại sau ". Chúng tôi rời vùng sau chót, và về
đáp lại căn cứ Vỉnh Nhị Tại bải đáp, anh em y tá bộ binh đang
băng bó vết thương cho các thương binh trong đó có Tr/u Thanh.
Tại căn
cứ Vỉnh Nhi, có hợp đoàn trực thăng Hoa Kỳ gồm bốn Cobras , và hai OH-6
đang nằm chờ để vào yểm trợ giải cứu anh cố vấn Mỹ.
Các pilots Mỹ đến tàu chúng tôi để hỏi thăm t́nh h́nh và một trong những
anh bạn Hoa Kỳ nầy đă t́m thấy "lóng tay" của anh Tuấn vướng trên khẩu
súng.
Trong khi nằm chờ tại Vỉnh Nhi, chúng tôi được biết phi hành đoàn
đều tử trận, chỉ trừ anh sĩ quan đề lô c̣n sống , anh nầy đă
chạy bộ vào quận Mỹ Thiện và báo cáo tin tức nầy......Thật là mầu nhiệm.
Trực thăng "rescue" từ Sư đoàn IV được gởi đến, Th/tá Lâm, phi
đoàn phó bay đến phụ lo việc tiếp cứu, và sau cùng Th/tá Cảnh, phi đoàn
trưởng củng đến an ủi anh em và cùng lo việc tiếp cứu phi hành đoàn
C&C.
Hợp đoàn trực thăng Hoa Kỳ cất cánh, chúng tôi thấy chiếc trực
thăng Rescue của Hoa Kỳ đang trên vùng.....Một lúc sau hợp đoàn trực thăng
Hoa Kỳ trở về, và cho biết họ bị pḥng không 12ly7 bắn tứ phía nên không thể
yểm trợ hữu hiệu cho việc rescue...và họ rời vùng.
Chúng tôi nằm chờ
tại căn cứ Vỉnh Nhi cho đến chiều, hy vọng t́nh h́nh khả quan hơn,chúng
tôi sẽ vào để t́m kiếm và bốc xác các bạn đồng độị Buổi
sáng trời trong xanh....đến chiều những áng mây đen từ đâu kéo về, cơn
mưa trút xuống như khóc thương cho những chiến sỉ VNCH nói chung, và anh em Không
Quân nói riêng đă hiến ḿnh cho tổ quốc. Sau cùng hợp đoàn hành quân đành phải
rời căn cứ Vỉnh Nhi trở về đơn vị bỏ lại sau lưng "những cánh chim ĺa đàn" , và tiếp tục nhiệm vụ của người
lính Không quân "Bảo Quốc Trấn Không".
" Quảng
Trị kiêu hùng, Kontum vùng dậy, Cai Lậy ứ hơi, Đầm Dơi ngă ngữạ
"
Bài thơ nầy, xin kính tặng các chiến sỉ VNCH đă anh dũng hy sinh trên
những chiến trường khốc liệt, đầy máu và nước mắt....
*TB:
Tôi được biết quân bạn đă vào nơi phi cơ rớt, thu hồi tất cả
thi hài của phi hành đoàn....chỉ riêng Th/U Hồng th́ chỉ t́m được chiếc
áo bay mà thôi???
| |
Subject: |
Người Chiến Sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến |
|
Author: |
hopp |
|
Người Chiến Sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc
chiến
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều
hiểu rằng không c̣n ǵ có thể cứu văn được nữa th́ người chiến
sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng
ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ - chương
tŕnh di tản "Frequent Wind" có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công th́ 2
chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đă bay lượn
trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong
hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ. Trong khi đó, nhiều người đă
không e sợ, đổ xô ra ngoài để nh́n một chiếc phi cơ "Rồng lửa" AC-119
đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của
bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất.
Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đă bị trúng hỏa
tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di
Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29
tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng
địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman "ít
nhất những người này đă là những chiến sĩ đă chiến đấu
một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời
binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng
hi sinh".
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của
Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đă
xảy ra ngay tại cửa ngơ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của
Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm
vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đă sẵn sàng chờ "đón"
quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đă có can đảm đứng
ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân
chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đă ra lệnh cho các cánh quân Nhảy
dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến... phải ngăn chận
quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh... Tướng
Phát kể lại rằng ông chỉ c̣n vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những
đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc
Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn
công từ hai ngả vào Saigon. Nhưng dù ở trong t́nh thế tuyệt vọng như vậy,
tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu
đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến
cực kỳ anh dũng và đă bị tan ră gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng
Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu
này không có...radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế.
Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa
soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng
t́nh h́nh đă hoàn toàn tuyệt vọng, không c̣n một chút hi vọng ngăn chân quân đội
Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân
Cộng sản, và h́nh như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay
đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn.
Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ.
Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa
băo xen lẫn với tiếng súng lớn, đă làm cho sự hỗn loạn gia tăng. Trong
thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng
sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền
đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng... Pháo tháp xe tăng
T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng...bột, chứ
không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. H́nh như vào giờ chót người
Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106
ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản
của thép đă làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng
chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh
kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến
vào dinh Độc Lập th́ bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về
bảo vệ ṿng đai Saigon. Họ không c̣n việc ǵ khác hơn là chiến đấu đến
cùng từ đường ṿng đai xa lộ Đại Hàn đến ngă tư Hàng Sanh về
đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những
cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy
Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ
15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt,
32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy,
chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều
khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương
Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để
ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những
người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu
rằng miền Nam đă bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn
trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, t́m đường về nhà.
Một
câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện
thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn th́ ông xuống dưới nhà. Dưới
chân cầu thang, một người Quân Cảnh đă đứng nghiêm chào ông và nói: "Vĩnh
biệt thiếu tướng", rồi rút súng bắn vào đầu tự tử. Khi vị
tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu th́
thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan
chỉ huy họ đang đứng thành ṿng tṛn và hờm súng vào... lưng nhau, sẵn sàng nhả
đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước
mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh
thần kỷ luật. Vậy lúc này đă có lệnh buông súng th́ anh em ai về nhà nấy mà
lo cho gia đ́nh. Tự tử không có ích lợi ǵ cho ḿnh cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ
có một vài sĩ quan trẻ tuổi đă tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng
Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng
Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500
chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những
chiến xa này đă đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngṿng đai Saigon. Nhưng sự
đầu hàng của Dương Văn Minh đă thay đổi hết kế hoạch tiến
đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đă từ trần trong tuổi
già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng
chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân
Vũng Tàu đă chiến đấu mănh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến
khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đă cầm chắc cái thắng trong tay nên
chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đ́nh với các em.
Các em đ̣i chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng
ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng
phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt
ràn rụa trên má...
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài b́nh
luận của kư giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề "Truy
Điệu Nam Việt Nam" "...Nam Việt Nam đă chống cự hữu hiệu trong 25 năm,
và họ đă không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xă
hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu
lâu dài như vậy... Quân lực VNCH đă chiến đấu can đảm và vững mạnh
trong một số trận đánh mà chúng ta c̣n nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân
đội ấy đă chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận
đánh khác mà chúng ta không c̣n nhớ địa danh. Quân lực ấy đă can đảm và
chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn
hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng
trăm ngàn người của quân lực ấy đă tử trận. Hơn nửa triệu
người của quân lực ấy đă bị thương. Và trong những tuần lễ
chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đă thua rồi
th́ vẫn c̣n những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu,
thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người
Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được.
Rốt cuộc, quân lực ấy đă tài giỏi hơn sự ước lượng của
người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đă là phía tốt hơn"
4/ Tài liệu
của kư giả người Pháp Jean Larteguy, đă chứng kiến những giờ phút cuối
cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị
của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau
bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt
vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt.
Đôi lúc họ c̣n cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không
nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của
trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định
chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn ḿnh trong những đổ nát của Saigon.
"Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn c̣n có được các cấp chỉ huy ở
bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem t́nh h́nh ra
sao? Ông trả lời: "Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người
lính cuối cùng chiến đấu. Hăy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết
không phải v́ Thiệu, v́ Hương hay v́ Minh."
Sau khi Dương Văn Minh đă tuyên
bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận
đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: "Gần
Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa,
cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau
cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng
chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy
c̣n đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung v́ đạn trong xe. Quân Dù không để
lại trên trận địa một thứ ǵ, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người
bị thương hoặc người chết." Larteguy cũng được thấy tận
mắt các sinh viên trường Vơ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót
của QLVNCH, tiến ra trận địa. "...Và trong những bộ đồng phục mới,
giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Vơ Bị Đà Lạt đă
đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu
có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng."
Một đồng nghiệp của
Larteguy là Raoul Coutard đă thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố
nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: "Các anh có biết là sắp bị giết
chết không?" Một thiếu úy trả lời: "Chúng tôi biết chứ!" V́ sao? - Tại v́
chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! "...Các xe tăng đầu tiên
của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên
Ḥa...
Bộ binh th́ tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ
tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều. Từ ngày hôm trước các đơn
vị cộng quân này đă bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn
Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự
chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định
bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại
nhiều. Sau đó chúng c̣n phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một
lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát
viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng
Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngă tư Hồng Thập Tự và
Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù vơ trang đại liên và Bazzoka mà chiến
đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài,
nắm vai nhau, lập thành ṿng tṛn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát.
"Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ
trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và c̣n chiến
đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến
10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng
bóng đem để rút về đồng bằng..." Darcourt cho biết đại tá Vinh đă
ở lại vị trí và tự sát.
Nguyên Huy
|
Vài ḍng "Những ngày cuối đời Trần Thế Vinh" |
|
|
PhicongNhan |
|
MỘT CHÚT ĐỂ
NHỚ, NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI “TRẦN-THẾ-VINH”
Lại
một buổi sáng, ngồi đây một ḿnh sau vườn nhà, thời tiết nam California
vừa chớm lập đông. Ừ nhỉ, hôm nay, kỷ niêm ngày lần đầu tiên ta
đặt chân đến Hoa-Kỳ, Travis AFB SanFrancisco. Thấm thoát đă 40 năm, ngồi
đây hồi tưởng lại những thế sự thăng trầm trôi qua gần nửa
thế-kỷ.
Vậy th́, vào Cánh-Thép
t́m lại những người bạn thủa nào. Bất chợt, t́m thấy nhiều bài
viết về phi-công khu trụcTrần-thế-Vinh. Thôi th́, hạ bút viết vài hàng về
một người em hiếm có này.
Viết
về Trần-Thế-Vinh th́ nhiều lắm rồi. Nhưng, hôm nay chợt nhớ đến
một người em đáng quư, xin mạn phép được viết thêm vài ḍng.
Trần-thế-Vinh
là một trong số bốn (4) người phi-công thời chiến mà ḍng họ chúng tôi đă
gửi gấm cho Không-Quân Viêt-Nam Công-Ḥa ngày nào.
Một
lần ngày đó, vào khoảng cuối năm 1971, ngẫu nhiên nhưng lại trùng-phùng, cậu
em, Trần-Thế-Vinh từ Biên-Ḥa PD 518 ra biệt-phái cho ASOC. Ông anh, Minh “L..”, phi-công
A37 từ PD 524 Nha-Trang và PD 534 Phù-Cát cũng đang biệt phái ở Pleiku. Trong môt phi-vụ
oanh-tạc ngă ba biên-giới Việt Miên Lào, Vinh rủ hai ông anh đi bay chơi. Vinh bay cùng
với anh Minh, c̣n phi-công về già này may mắn được bay với ngài “Ninh DeGaule”.
Bốn tên lững thững bước ra phi-cơ, ngài “Vinh nghệt” thổi cho một
câu.
- T.. T.”, nhớ mang mấy ông anh cậu
về an lành nha cậu. Chưa thấy bao giờ ba anh em cùng bay trong cùng một phi-vụ. Nghich
ǵ, mà nghịch dữ vậy cậu.
- Có sao. Nhờ cậu tí.
Tối hôm đó,
ba anh em có dip hàn-huyên với nhau qua một màn chén chú chén anh ở một ngơ hẻm của phố
Pleiku. Tha hồ tán ngẫu..
- Vinh vừa đậu thêm chứng-chỉ Luật đấy à.
- Vâng, may mắn ấy mà anh
- Kinh thế. Ngày nào, tôi từ Petrus-Kư, c̣n Nh.. từ Chu-Văn-An. Lúc trước, học
ngày, học đêm vẫn thua Vinh. Vinh học đệ-ngũ,
cậu đậu trung-học. Cậu đậu tú-tài I lúc đang học đệ tam. Tṛn
16 tuổi, vào không-quân. Về nước, bay bổng ngày đêm, sau cậu đậu tú-tài
II. Bây giờ lại đậu Luật nữa”. Tôi không hiểu sao Vinh làm được.
- Đâu có ǵ, anh’. Chuyện nhỏ nhặt, ấy mà.
- Nghe nói ông cụ mới
lấy số tử-vi cho Vinh à.
- Bác nói em ‘ngắn số’ và nhiều người
biết đến. Ngoài ra bác không nói ǵ thêm.
- C̣n ông cụ tôi.Mỗi lần ông ǵa la mắng tôi,lúc
nào cũng lấy Vinh ra làm đề tài
- ‘Con phải lấy Vinh làm gương’.
- Th́ em cũng thế. ‘Con phải lấy Vinh làm gương’.
Nào là, ‘Vinh nó đẹp trai này, hoc giỏi này, điềm đạm này, tư cách này.
Nó không hút thuốc, không uống rượu, không trai gái’.
Lạy chúa trên
trời !. Chỉ có Chúa, Chúa mới biết hết nỗi oan-ức cho anh Minh và con”.
- Thôi, khi về Saigon nghỉ phép, ba anh em đi nhậu tiếp.
Đầu tháng tư
1972, đúng như đă hứa, ba (3) anh em lại có dịp cùng nhau, có dịp chén chú chén anh
ở Sài-G̣n. Và, đến “Hầm-Gió” nghe Khánh-Ly, Lê-Uyên-Phương hát. Nhắc đi
nhắc lại chuyện đau xót, người anh lớn, anh Dũng Sỹ-Quan hành quân tiểu
đoàn 11 Nhẩy-Dù, xuất thân từ khóa 20 VBQGVN, vừa tử trận năm trước
ở Dambe, xứ chùa tháp.
- Nguyễn-Đ́nh-Bảo đến nhà thăm
ông bà cụ. Anh Bảo buồn lắm, khi mất anh Dũng.
- Ngài Bảo và anh Dũng một lần vào
Bắc-Tiến t́m em đi làm một chầu ở Hố-Nai.
Mấy bác này uống dữ.
- Cũng c̣n thua một người.
- Ai anh.
- Hỏi là trả lời.
Quay đi quay lại.
Cả ba anh em đều bay yểm trợ cho tiểu-đoàn 11 ND của anh Bảo trên khắp
vùng trời nhỏ bé VN.
- Anh Hùng bao giờ từ Mỹ về anh,
bay loại phi-cơ ǵ vậy.
- Hùng đang ở Sheppard hay ở Eglin ǵ đó.
Hùng đang học F5. Chắc khi về cậu về nước, không Biên-Ḥa th́ lại Đà-Nẵng.
- Vinh à. Thế anh ǵ cùng khóa 65A với Vinh.
Qua biệt-kích. Sau trở lại Không-Quân và thành phi-công. Ngài này, rất tư cách. Đâu rồi.
- À, bác ấy đang ở cùng pḥng với
em ở trại Bắc-Tiến.
- Cậu vừa rớt ở tam-biên à.
- Vâng, chút nữa là đi tầu suốt đấy
anh.
- Em th́ bị bắn rách lưng ở Mộc-Hóa.
Xuống Napalm, vừa kéo lên, nó nạp em liền. Mấy chú “vẹm” hỗn thật.
- Tuần trước, một wingman của
anh vừa gẫy cánh ở Chu-Pao. Ḿnh mới vào xong pass đầu.
Sửa xoạn vào pass thứ nh́, đă nghe thấy cậu em kêu “Mayday” rồi. Không
hiểu sao cậu em này không nhẩy ra, lại kêu “Mayday”. Tôi thấy máy bay nó đâm
thẳng vào Chu-Pao, bốc khói. Tôi tặng mấy chú “vẹm” một màn Salvo. Wingman
này mới về phi-đoàn. Tôi mới huấn-luyện cậu này xong. Chết quá trẻ.
- Đời phi-công là thế. Có ǵ đâu.
- Thế Cao Hùng và Quang-Tuấn dạo này ra
sao.
- Sáng mai, Tuấn và em đi biệt phái Đà-Nẵng.
Nghe nói Quảng-Trị rất “HOT”. Chán thật. Trận chiến này kéo dài quá lâu. Ước
sao, anh em ḿnh “ỤC” mấy bác “vẹm đỏ” này một trận chổng
gọng, vài màn “chả ch́a” mấy chú vẹm, vài ly “ông già chống gậy”cho
nó xong hết cuộc chiến lê thê này.
Và, không ngờ,
đó là lời cuối cùng của Vinh đă hàn huyên cùng hai người anh cùng chung mộng
đời.
Và, bây giờ,
có khác ǵ đâu, anh Minh cũng đă ngắn số như người em Trần-Thế-Vinh
ngày nào.
Ước
mong, bên đời kia, hai cánh chim thời chiến, người anh và người em tôi,đang
an nghỉ trong ṿng tay yêu thương của Chúa.
Một chút
ǵ để nhớ trong mùa giáng-sinh gần kề. Chắc hẳn, thế nào cũng có sự
lẩm cẩm của người viết. Viết từ một cánh chim về chiều, khi
trí nhớ phải cần xét lại.
Trần-Thế-Vinh
thường đùa. “NHỜ CẬU TÍ”. Th́ cánh chim về già này, “Nhờ bác tí”
khi viết những ḍng này.
PCN, Giáng Sinh 2007
******
Subject: |
Sinh nhật buồn, Trần-Thế-Vinh |
|
Author: |
PhicongNhan |
|
SINH NHẬT BUỒN
Năm xưa ấy... Đúng vào ngày hai bảy
Nắng thu vàng trăi nhẹ khắp trời mây....
Hương ngạt ngào bởi hoa lá cỏ cây...
Cùng bừng dậy đón chào ngày anh đến...
Rồi anh khóc chào đời trong tŕu mến,
Cha mẹ vui, nhà vang rộn tiếng cười!
Xuân chợt về khi thu lá vẫn rơi.
Thoảng đâu đó... Nhạc vang trong ngày mới...
Trong nắng gió, cùng Quê Hương anh lớn.
Ngọn nến hồng bừng sáng mỗi tháng
năm...
Mẹ nuôi anh theo từng bước thăng trầm!
Anh khôn lớn trưởng thành theo năm tháng...
Làm trai sống thời quê hương ly loạn
Xếp bút nghiên anh chọn nghiệp đao binh
Cánh Đại bàng anh lướt gió quên ḿnh
Với mộng ước yên b́nh cho đất
nước
Mẹ thương nhớ dơi theo anh từng bước
Người yêu buồn gạt nước mắt
phân ly
Dấu t́nh riêng anh mạnh dạn bước
đi
Ḷng thầm hẹn ngày thanh b́nh trở lại
Mùa hè lửa giặc tràn qua Bến Hải
Anh hiên ngang đạp gió lướt ngàn mây
Xác giặc thù từng lớp lớp phơi đầy
Chiến xa địch tan hoang thành sắt vụn
Tin chiến thắng nở hoa đầu ngọn
súng
Bỗng Đại Bàng gẫy cánh giữa không
trung
Mang theo anh, thân xác một người hùng
Xa trần thế nghẹn ngào bao tiếng nấc
Đền nợ nước hồn thiêng anh bay
vút
Bao chiến công quà tặng của non sông
Dâng quê hương chí cả nợ tang bồng
Từ tạ Mẹ một lời chưa kịp
nói
Anh ra đi cánh chim chưa biết mơi
Ḍng máu hồng anh tô điễm giang sang
Cánh đại bàng chưa thỏa mộng dọc
ngang
Anh ngă xuống biết bao người thương
tiếc
Anh ra đi xứng danh người trai Việt
Trang sử vàng ghi đậm nét son anh
TRẦN THẾ VINH sống măi giữa
trời xanh
Gương anh viết nên khúc ca hùng tráng
Tôi cung kính và biết ơn vô hạn...
Bố Mẹ anh ,người là đấng sinh
thành!
Đă cho đời ,người có ích
như anh!
( Trao cho đời người con đă thành danh)
Mẹ măn nguyện, mĩm cười trong di ảnh...
Hôm nay đây cũng vào ngày hai bảy,
Nắng thu vàng vẫn ươm đậm trời
mây....
Nén hương ḷng tôi thắp tặng anh đây
Cảm ơn Mẹ đă sinh ra người ấy.
Nắng-Vàng
| |
|