ThaiDuong-Jupiters 530

Home
Our Purpose
530-List
530-history
Stories/poems
Members Page
The Road
Picture Gallery
Links

Ḥa B́nh Vang Tiếng Súng

Subject: Hoà b́nh vang tiếng súng Print to printer
Author: comay  
 
Tác giả: Mê Kông

I. MẶT TRẬN BẮC HẢI VÂN

Về mặt quân sự, lănh thỗ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) được chia thành bốn vùng chiến thuật mang số từ 1 đến 4, đến năm 1971 th́ được đổi tên lại là quân khu. Quân Khu 1 là khu vực cực Bắc của VNCH, tiếp giáp với Bắc Việt nên là khu vực thường xuyên bị áp lực nặng nề nhất dù là khu vực nhỏ nhất trong 4 quân khu về mặt lănh thổ. lănh thổ của Quân Khu 1 bao gồm 5 tỉnh:Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngải chạy dài từ Bắc xuống Nam với hai thành phố quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Đà Nẵng trong tỉnh Quảng Nam là thành phố lớn thứ nh́ của VNCH, sau thủ đô Saigon và là một trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng nhất ở phía Bắc Saigon.

Được thiên nhiên ưu đải với một hải cảng tốt và bờ biển dài và đẹp, Đà Nẵng được chọn là nơi những người lính bộ chiến đầu tiên của Quân Đội Mỹ đặt chân lên đất Việt Nam vào năm 1965. Mỹ đă xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự lớn gồm có phi trường/căn cứ không quân, hải cảng/căn cứ hải quân và các trung tâm tiếp vận/yểm trợ lớn và hiện đại. Phía Việt Nam Cộng Ḥa cũng có các căn cứ không/hải quân lớn ở đây cùng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, chỉ huy toàn bộ các đơn vị cơ hữu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trên lănh thổ Quân Khu 1. Huế trong tỉnh Thừa Thiên là cố đô của nước Việt Nam dưới triều đại phong kiến sau cùng của nhà Nguyễn với những di tích lịch sử và văn hóa quan trọng như các cung điện trong Hoàng Thành/Thành Nội và các ngôi chùa nổi tiếng trong thành phố và các lăng tẩm vua ở khu vực ngoại ô thành phố. Không có giá trị quan trọng về quân sự và kinh tế như Đà Nẵng, Huế lại có một giá trị vô cùng quan trọng về mặt chính trị, lịch sử và tâm lư cho chính phủ VNCH. Do đó Huế được coi trọng và phải bảo vệ đến cùng.


H́nh chụp sau cuộc chiến trên một khúc đường đèo Hải Vân
(H̀NH ẢNH: Multipurpose).


Về phía Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), hai tỉnh địa-đầu Quảng Trị và Thừa Thiên trực thuộc Quân Khu Trị Thiên, bí danh "B-4," và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Quân Ủy Trung Ương cùng Bộ Tổng Tư Lệnh ở Hà Nội. Hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam được ngăn cách bởi rặng núi Hải Vân đâm thẳng ra biển Nam Hải tại đèo Hải Vân đẹp nổi tiếng nhưng cũng đầy nguy hiểm. Sự phân chia về địa lư và thời tiết này đă tạo ra hai khu vực/mặt trận quân sự cách biệt ở Quân Khu 1 là Bắc Hải Vân --gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-- và Nam Hải Vân (Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngải). Bài viết sẽ tập trung vào những hoạt động quân sự quan trọng trong khu vực Bắc Hải Vân từ đầu năm 1971 khi Quân Lực VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào để tiêu diệt hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh cho đến khi thành phố Huế và hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên mất vào tay Cộng Sản trong cuộc tổng tấn công kết thúc cuộc chiến vào mùa xuân năm 1975. Phần đầu tiên sẽ nói về năm 1973, năm đầu tiên sau hiệp định Paris về ngưng bắn và tái lập ḥa b́nh ở Miền Nam Việt Nam, cho đến khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4 năm 1975.

T̀NH H̀NH QUÂN SỰ CUỐI NĂM 1972-TRƯỚC NGÀY NGỪNG BẮN

Vào tháng 12 năm 1972 những đàm phán giửa Hoa Kỳ và Bắc Việt tại hội nghị Paris về một giải pháp ngừng bắn và tái lập ḥa b́nh ở Miền Nam Việt Nam đang bước vào giai đoạn căng thẳng quyết định th́ trên chiến trường Miền Nam Việt Nam những nổ lực tổng tấn công xâm-lăng của Bắc Việt đă thất bại nặng nề, nhưng phía Quân Lực VNCH cũng thiệt hại không nhỏ. Mực độ chiến trận đă giảm nhiều nhưng vẫn c̣n những cuộc hành quân lấn chiếm đất đai và dân cư trước khi có cuộc ngưng bắn. Quân đội Bắc Việt mở màn cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 trong chiến dịch Nguyễn Huệ ở Quảng Trị thuộc lănh thổ Quân Khu 1 với 3 sư đoàn chủ lực cùng nhiều trung đoàn bộ đội độc lập, thiết giáp, pháo binh, pḥng không và đặc công Việt Cộng tấn công vào thị xă Quảng Trị và thành phố Huế. Đến giai đoạn cuối của chiến dịch này, vào tháng 12 năm 1972, trên lănh thổ Quân Khu 1, quân đội Bắc Việt có 8 sư đoàn cùng với 5 trung đoàn bộ binh độc lập, 3 trung đoàn thiết giáp, 6 hay 7 trung đoàn pháo binh, ít nhất 4 trung đoàn đặc công của quân chủ lực, yểm trợ bởi 33 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, pḥng không, trinh sát, đặc công thuộc quân địa phương.

Đối phó với một lực lượng hùng hậu dù đă bị tổn thất hết sức nặng nề của Bắc Quân, Quân Lực VNCH có 5 sư đoàn (ba sư đoàn bộ binh cơ hữu của Quân Đoàn 1, tăng cường với 2 sư đoàn tổng trừ bị cơ động chiến lược của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH) cùng với 1 liên đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) trừ bị chiến thuật cho quân đoàn và các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Pḥng và lực lượng pḥng vệ lănh thổ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân. Theo tổ chức của quân đội Bắc Việt, các hoạt động quân sự phía Bắc đèo Hải Vân do Quân Khu Trị Thiên (Mặt Trận B-4) trông coi từ đèo Hải Vân đến khu vực thị xă Quảng Trị. Phía Bắc thị xă Quảng Trị ra đến vùng Phi Quân Sự và chạy dọc theo Quốc Lộ 9 đến biên giới Lào thuộc mặt trận B-5 trực thuộc Quân Khu 4 của Cộng Sản ở phía Bắc vùng Phi Quân Sự.

BẮC HẢI VÂN, XUÂN 1973

Từ tháng 11 năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa dùng 2 lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) đánh vào khu vực tỉnh lộ 560 chạy song song bờ biển Nam Hải lên đến Cửa Việt nhưng gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân và mùa mưa khởi đầu vào tháng 12 nên không chiếm được mục tiêu quan trọng là Cửa Việt. Trải dài từ bờ biển Nam Hải dọc theo sông Thạch Hăn vào tận trong khu vực rừng núi phía Tây của Quốc Lộ 1 là các đơn vị của 4 sư đoàn Bắc Việt (304, 312, 320B, 325) cùng 2 trung đoàn độc lập của mặt trận B-5. Sư Đoàn 308 Bắc Việt sau tổn thất nặng nề đă trở về Miền Bắc để phục hồi và trở về vị trí tổng trừ bị chiến lược. Bắc Quân bố trí hai trung đoàn ở khu vực dọc theo bờ biển Nam Hải (Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325 và Trung Đoàn 48B của Sư Đoàn 320B).

Giữa khu vực này và thị xă Quảng Trị là ba trung đoàn khác (Trung Đoàn 27 và 31 độc lập của B-5 và Trung Đoàn 18 của Sư Đoàn 325). Và lực lượng này được yểm trợ bởi Trung Đoàn 164 Pháo Binh. Thị xă Quảng Trị được quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chiếm lại ngày 16 tháng 09/1972 sau một chiến dịch hành quân ác liệt. Sau đó thị xă này được trấn giữ bởi một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Ở hướng Tây và Tây-Nam thị xă Quảng Trị, về hướng tỉnh lộ 556 do sư đoàn Nhảy Dù VNCH đảm trách. Lực lượng Nhảy Dù đă lấy lại các căn cứ Anne và Barbara vào tháng 12 năm 1972. Đối diện với Nhảy Dù là các đơn vị Bắc Việt sau đây:

Trung Đoàn 95 của Sư Đoàn 325, Trung Đoàn 165 và 209 của Sư Đoàn 312 và Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304. Bảo vệ cố đô Huế và Quốc Lộ 1 ở phía Tây, Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) dàn quân từ sông Bồ kéo dài qua khu vực Phú Bài, Phú Lộc xuống đến Lăng Cô và chân đèo Hải Vân. Trung Đoàn 3 đóng ở căn cứ T-Bone, bảo vệ tuyến sông Bồ.

Trung Đoàn 1 đóng ở các căn cứ Veghel và Bastogne, bảo vệ Huế ở hướng tỉnh lộ 547 phía Tây.
Trung Đoàn 51 đóng ở Phú Bài, bảo vệ an ninh cho Quốc Lộ cho đến chân đèo Hải Vân.
Trung Đoàn 54 đóng quân trên các ngọn đồi phía Tây và Tây-Nam khu vực Phú Bài-Phú Lộc. Đối diện với Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Việt Nam Cộng Ḥa là Sư Đoàn 324B CSBV với 3 trung đoàn (29, 803, và 812) cùng 2 trung đoàn độc lập (5 và 6) của Mặt Trận B-4. Để tiện việc chỉ huy các lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Ḥa ở khu vực Bắc Hải Vân, Trung Tướng Ngô Quan Trưởng cho thành lập bộ chỉ huy tiền phương Quân Đoàn 1 ở Huế, do Trung Tướng Lâm Quang Thi, tư Lệnh phó Quân Đoàn 1 chỉ huy.


Phi Trường Phú Bài (H̀NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)

Về phía Bắc Việt, trước ngày kư kết hiệp định được ít ngày cũng có những thay đổi quan trọng ở cấp chỉ huy. Thiếu Tướng Cộng Sản Lê Trọng Tấn làm tư lệnh Quân Khu Trị Thiên thay Trần Quí Hai, Trung Tướng Song Hào làm chính ủy. Các Đại Tá Cao Văn Khánh, Doăn Tuế và Hoàng Văn Thái vẩn giữ chức phó tư lệnh trong khi các Đại Tá Lê Tự Đồng và Hoàng Minh Thi là phó chính ủy. Các đơn vị Bắc Việt đều bị thiệt hại nặng, chỉ c̣n 20 đến 30 phần trăm quân số, chưa kịp bổ sung. Khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực th́ Bắc Quân có Sư Đoàn 312 ở hướng Tây đang giằng co với Sư Đoàn Nhảy Dù ở khu vực Động Ông Do Ở cánh Đông ra hướng biển Nam Hải, Bắc Việt bố trí các sư đoàn 304, 320B, 325 và Trung Đoàn 27 độc lập của Mặt Trận B-4.

T̀NH H̀NH SÁU THÁNG ĐẦU NĂM 1973 Ở QUÂN KHU 1

Khi hiệp định ngừng bắn và tái lập ḥa b́nh ở Miền Nam Việt Nam được kư kết tại Paris vào cuối tháng Giêng năm 1973 th́ trên phần đất Trị-Thiên, bộ đội Bắc Việt đă chiếm được khu vực phía Bắc tỉnh Quảng Trị kéo dài từ vùng Phi Quân Sự xuống đến sông Thạch Hăn cũng như khu vực rừng núi phía Tây từ dăy núi Trường Sơn vào tận biên giới Việt-Lào. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa kiểm soát hoàn toàn khu vực đồng bằng nhỏ hẹp nhưng trù phú, đông dân chạy dài từ sông Thạch Hăn đến Lăng Cô ở chân đèo Hải Vân. Khu vực này bao gồm 13 quận (3 thuộc tỉnh Quảng Trị và 10 thuộc tỉnh Thừa Thiên) với 960 ngàn dân (trong đó 202 ngàn dân ở tỉnh Quảng Trị).

Bắc Việt đă chuẩn bị cho Sư Đoàn 320B tấn công vào khu vực Chợ Săi để mở rộng vùng kiểm soát. Tuy nhiên khi nhận được tin t́nh báo cho biết quân đội Việt Nam Cộng Ḥa sắp mở một cuộc hành quân tái chiếm khu vực Cửa Việt th́ Mặt Trận B-4 liền hủy bỏ cuộc hành quân vào Chợ Săi để chuẩn bị đối phó. TRẬN ĐÁNH CỬA VIỆT Sau khi tái chiếm lại thị xă Quảng Trị và Cổ Thành, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lần lượt sử dụng Tiểu Đoàn 8, 9 và 4 TQLC đánh vào khu vực tỉnh lộ 560 chạy song song bờ biển Nam Hải lên đến Cửa Việt nhưng gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân dưới sự yểm trợ dữ dội của các giàn pháo binh 130 ly và mùa mưa khởi đầu vào tháng 12 nên không chiếm được mục tiêu quan trọng là Cửa Việt.

Trong một nỗ lực cuối cùng để chiếm mục tiêu chiến lược quan trọng là Cửa Việt, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thành lập một lực lượng đặc nhiệm mang tên Tango. Lực lượng này do Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tư lệnh phó sư đoàn, trực tiếp chỉ huy gồm có Tiểu Đoàn 2 và 4 TQLC, tăng cường một đại đội của Tiểu Đoàn 5 TQLC và 3 đại đội của Tiểu Đoàn 9 TQLC, Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, Thiết Đoàn 17 và 18 Kỵ Binh và được ba tiểu đoàn pháo binh TQLC cùng pháo hạm của Hạm Đội 7 Mỹ yểm trợ đă đánh vào khu vực Long Quang, Bồ Xuyên và tiến dọc theo bờ biển về hướng Thanh Hội, Gia Đẳng, Cửa Việt. Mục tiêu chính của Việt Nam Cộng Ḥa là tái chiếm lại căn cứ Hải Quân ở cửa sông Miếu Giang đổ ra biển Nam Hải, cách tuyến đầu của Thủy Quân Lục Chiến khoảng 12 km và cắm cờ VNCH ngay trước giờ ngưng bắn. Khác với chiến dịch tái chiếm tỉnh Quảng Trị và đặc biệt là Thành Cổ Quảng Trị đẫm máu và lâu dài, cuộc hành quân này được thiết kế áp dụng lối đánh thần tốc để chiếm mục tiêu trong ṿng 25 giờ đồng hồ.

Khi ấy lực lượng Cộng Sản Bắc Việt ở cánh Đông gồm có Trung Đoàn 48 và 64 của Sư Đoàn 320B ở khu vực Long Quang, An Lộng, Bồ Liên,Văn Hoa, Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325 ở khu vực Gia Đẳng. Lực lượng trừ bị ở phía sau gồm Trung Đoàn 88 và 102 của Sư Đoàn 308 và Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320B. Bộ chỉ huy Mặt Trận B-4 cho tăng cường một đại đội chiến xa T-54, một tiểu đoàn pháo binh 85 ly chống chiến xa và một tiểu đoàn hỏa tiển chống chiến xa AT-3 Sagger. Khoảng 7 giờ sáng ngày 27 tháng 1, lúc thủy triều xuống, gió bấc mưa phùn và ồn ào sóng biển, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh gồm 10 ngàn quả đạn, thêm 9 phi vụ B-52 và 5 ngàn đạn hải pháo của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ từ ngoài khơi bắn vào, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa tiến quân dọc theo bờ biển về hướng Cửa Việt.

Các chốt pḥng thủ của Bắc Việt lần lượt bị nhổ, nhưng sức kháng cự của họ cũng c̣n mạnh. Đến khoảng 8 giờ tối ngày này th́ quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đă tiến được nửa đường, và một số đơn vị đă bị tổn thất khá nặng, khoảng trên dưới 20 chiến xa và thiết vận xa của bị hư hại. Đại Tá Trí cho hai lực lượng Cọp Biển và Thiết Giáp liên kết đánh nhanh theo hướng sát biển mà không cần yểm trợ bảo vệ ở cánh trái từ hướng đất liền. Do tập trung vào tuyến pḥng thủ chánh phía trong đất liền, Bắc quân bị bất ngờ, v́ đúng 7 giờ 58 phút sáng ngày 28 tháng 1, hai phút trước khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực th́ mũi nhọn đột kích với khoảng 300 lính Cọp Biển được 3 chiến xa M-48 yểm trợ do Thiếu Tá Phạm Văn Tiền, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 TQLC, chỉ huy đă chọc thủng tuyến pḥng ngự phía Đông và cắm cờ ngay cảng Cửa Việt, bắt loa kêu gọi ngừng bắn.

Các cấp chỉ huy Bắc Việt ở mặt trận (thuộc Sư Đoàn 320B CSBV) đă tỏ ra lúng túng, đánh th́ sợ vi phạm hiệp định, không đánh th́ bị mất đất, nên phải điện lên cấp trên xin chỉ thị giải quyết . Do vị trí quan trọng chiến lược trong việc chi viện cho chiến trường Trị Thiên của cảng Cửa Việt và Đông Hà, đă xảy ra những ngày căng thẳng ở bộ chỉ huy tối cao Cộng Sản ở Hà Nội khiến các cấp lănh đạo không "yên tâm ăn Tết." Quân Ủy Trung Ương sau cùng phải cử Thiếu Tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu phó vào tận Quảng Trị ra lệnh cho Đại Tá Cao Văn Khánh, phó tư lệnh Mặt Trận Quảng Trị, xuống tận Cửa Việt với chỉ thị phải tấn công để lấy lại ngay. Đêm 28 tháng 1 các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tập trung ở ba cứ điểm pḥng thủ về phía Nam cảng Cửa Việt, Đông Bắc của Thanh Hội và Nam của Long Quảng. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa được lệnh chuẩn bị nhận tiếp tế, tải thương và canh pḥng cẩn mật để chờ cho Ủy Ban Kiểm Soát Ngưng Bắn đến ghi nhận. Suốt ba đêm từ 28 đến 30 tháng 1, bộ chỉ huy quân Bắc Việt do Cao Văn Khánh chỉ huy điều động lực lượng và hoàn chỉnh đội h́nh để tấn công cảng Cửa Việt. Sáng ngày 31 tháng 1 Bắc quân dùng Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 320B và Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325, tăng cường thêm Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 được chiến xa và pháo binh yểm trợ tấn công chiếm lại Cửa Việt. Cao Văn Khánh tổ chức ba hướng tấn công:
  1. Hướng chận đầu do Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 320B và một bộ phận Hải Quân CSBV đang tiếp thu Cửa Việt bảo vệ không cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến VNCH mở rộng khu vực chiếm đóng.
  2. Hướng khóa đuôi do Trung Đoàn 64 của Sư Đoàn 320B tăng cường 2 tiểu đoàn (một từ Trung Đoàn 24 và một từ Trung Đoàn 101) bố trí ở Vĩnh Ḥa, vừa đánh các đơn vị Cọp Biển-Thiết Kỵ từ Thanh Hội lên tăng cường, vứa chận các đơn vị Cọp Biển-Thiết Kỵ từ Cửa Việt rút về.
  3. Hướng tấn công do Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325, Trung Đoàn 24 (thiếu 1 tiểu đoàn) của Sư Đoàn 304, tăng cường hai tiểu đoàn của mặt trận B-5 tấn công vào các cụm pḥng thủ của liên quân Thủy Quân Lục Chiến-Thiết Giáp ở khu vực Cửa Việt.
Sau 30 phút bắn pháo mở màn từ 6 giờ 30 đến 7 giờ sáng, Bắc quân ào ạt tấn công và đến trưa ngày này đă khôi phục lại vị trí pḥng ngự khu vực Cửa Việt. Bị bao vây cả ba mặt trừ phía sau lưng trông ra biển, thiếu nước uống, đạn dược cũng như cần tải thương, không dám sử dụng hỏa lực yểm trợ của phi pháo do sợ vi phạm hiệp định, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp phải mở đường máu rút trở về vị trí xuất phát với đơn vị Thiết Giáp bị thiệt hại trên 2/3 số chiến xa tham chiến. Thường Vụ Quân Ủy Trung Ương thở phào nhẹ nhơm và gởi thơ khen ngợi việc chiếm lại cảng Cửa Việt, chấm dứt chiến dịch tấn công chiến lược 1972 ở hướng Quảng Trị. Phía Việt Nam Cộng Ḥa, dù Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango đă linh động khôn ngoan trong việc đột kích theo hướng sát bờ biển để cắm cờ trên căn cứ hải quân tại cửa biển chiến lược Cửa Việt ngay trước giờ ngưng bắn khiến Sư Đoàn 320B không kịp phản công, do sự thiếu sót trong công tác yểm trợ cũng như phán đoán sai lầm về thời gian có mặt lập tức của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngưng Bắn khiến Bắc quân có nhiều thời gian chuẩn bị phản công.

Tuy nhiên phía Việt Nam Cộng Ḥa sau đó đă có cơ hội phục hận ở Sa Huỳnh. Với thành tích trong trận đánh Cửa Việt, các đơn vị Việt Nam Cộng Ḥa tham chiến sau đây đă được tuyên dương công trạng với U.S. Valorous Unit Award của Hoa Kỳ:
  • Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
  • Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango (Sư Đoàn TQLC và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh)
  • Tiểu Đoàn 2,4 và 9 Thủy Quân Lục Chiến
  • Bộ chỉ huy Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, Chi Đoàn 1/20 và 3/20 Chiến Xa
  • Chi Đoàn 1/17 và 2/17 Kỵ Binh
  • Chi Đoàn 2/18 Kỵ Binh
    Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực được ít ngày, Bắc Việt cho sát nhập hai chiến trường B-4 và B-5 lại thành một, gọi là Quân Khu Trị-Thiên, bí danh B-4. Thiếu Tướng Cộng Sản Cao Văn Khánh trở thành tư lệnh Mặt Trận B-4, Đại Tá Lê Tự Đồng là chính ủy trong khi Đại Tá Hoàng Văn Thái là tư Lệnh phó và Đại Tá Nguyễn Hữu An là tư Lệnh phó kiêm tham mưu trưởng. Lực lượng chủ lực của Bắc Quân gồm Sư Đoàn 304, 324B và 325 bố trí ở khu vực Bắc Quảng Trị cùng với các trung đoàn độc lập 4, 5, 6, và 271 của Quân Khu Trị-Thiên bố trí ở phía Tây Huế ở hướng Đường 12 và các lực lượng yểm trợ như Lữ Đoàn 164 Pháo Binh, Lữ Đoàn 219 Công Binh, Lữ Đoàn 203 Thiết Giáp.

    Các sư đoàn tổng trừ bị 308, 312, và 320B được đưa vào từ Lào và Miền Bắc để tham gia cuộc tổng tấn công đă được rút về Miền Bắc để dưỡng quân và hồi phục sau những tổn thất nặng nề. Phía quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có Sư Đoàn 1 BB và hai sư đoàn tổng trừ bị cơ động chiến lược Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tăng viện từ Bộ Tổng Tham Mưu /Quân Lực VNCH cùng các đơn vị cơ hữu của Quân Đoàn 1 như Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, v.v. Phía Bắc Việt, chủ yếu là hoạt động cũng cố và bảo vệ các vùng đất đă chiếm được trong chiến dịch Nguyễn Huệ vào mùa hè 1972, đặc biệt là thị trấn Đông Hà trở thành một trung tâm tiếp vận lớn cùng với cảng Cửa Việt.

    Bắc Việt cũng bắt đầu xây dựng con đường chiến lược mới Đông Trường Sơn chạy dài từ khu vực Khe Sanh xuống khu vực Tân Cảnh-Dakto nối vào Quốc Lộ 14 xuống tận Lộc Ninh cũng như những nhánh đường ṃn tiếp-vận chạy dài từ khu vực rừng núi phía Tây các tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam ra hướng đồng bằng duyên hải để cắt đứt Quốc Lộ 1 và cô lập Huế và Đà Nẵng trong nổ lực tổng tấn công sắp đến. Phía quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chủ yếu là bảo vệ các vị trí quân sự quan trọng, khu vực đồng bằng duyên hải và các trung tâm đô thị, các khu vực tái định cư cho đồng bào Quảng Trị chạy nạn chiến tranh, và duy tŕ lưu thông liên lạc trên Quốc Lộ 1 huyết mạch chạy xuyên qua Quân Khu 1 dọc theo Biển Nam Hải.

    NHẬN ĐỊNH T̀NH H̀NH SÁU THÁNG CUỐI NĂM 1973 Ở QUÂN KHU 1

    Trong sáu tháng cuối năm 1973, Bắc Việt tập trung nổ lực tái xây dựng lực lượng chiến đấu và mở rộng đường vận chuyển cùng các kho tiếp vận. Mức độ chiến trận thấp do các đường vận chuyển và kho tiếp vận của Bắc Quân ở phía Tây không bị quân đội Việt Nam Cộng Ḥa quấy rối. Quân Cộng Sản tiếp tục xây dựng các công cuộc tiếp-vận để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công mới mà không cần che đậy và tăng cường lực lượng pḥng không để ngăn chận nổ lực trinh sát trên không trung của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Đoàn 1, cũng thay đổi kế hoạch pḥng thủ với Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ hướng Bắc tiếp giáp với Miền Bắc ở tỉnh Quảng Trị. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được tăng cường Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB bảo vệ phía Tây Quốc Lộ 1 thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù. Sư Đoàn Nhảy Dù bảo vệ khu vực trọng yếu Cổ Bi-cầu An Lỗ. Sư Đoàn 1 BB đảm nhiệm khu vực phía Tây và Nam Huế chạy dài đến đèo Hải Vân. Sư Đoàn 3 Bộ Binh bảo vệ tỉnh Quảng Nam bao gồm thành phố Đà Nẵng và phía Bắc tỉnh Quảng Tín tại khu vực thung lũng Quế Sơn trong khi Sư Đoàn 2 Bộ Binh trách nhiệm từ phía Nam thung lũng Quế Sơn đến biên giới tỉnh B́nh Định thuộc Quân Khu 2.


    H́nh chụp từ trực thăng UH-1 nh́n xuống căn cứ Cửa Việt. Ngày 28 tháng 1 năm 1973, lúc 7 giờ 58 phút sáng một lực lượng gồm 300 lính Cọp Biển VNCH đă chọc thủng pḥng tuyến đối phương và sau đó cắm cờ ngay cảng Cửa Việt. Nhưng sau đó, ngày 31 tháng 1, hai trung đoàn Bắc Việt có chiến xa và pháo binh yểm trợ đă mở cuộc tấn công và dành lại căn cứ này. (H̀NH ẢNH: Herman W. Hughes)
    Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nơi diễn ra trận đánh đẩm máu nhất trong chiến cuộc Việt Nam trong năm 1972, là khu vực yên tỉnh và ổn định nhất ở Quân Khu 1, nếu không nói là trên cả nước Việt Nam Cộng Ḥa. Tiếng súng đă yên tỉnh từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1973 và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ngoài Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB c̣n kiểm soát 6 tiểu đoàn Địa Phương Quân và 12 đại đội Nghĩa Quân của tỉnh Quảng Trị, cùng Thiết Đoàn 18 Kỵ Binh và một chi đoàn chiến xa M-48.

    ChuẩnTướng Bùi Thế Lân, tư lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến , cho đóng xen kẻ các đơn vị TQLC với các đơn vị Địa Phương Quân Quảng Trị trong các vị trí pḥng thủ. Cuối năm 1973, Tướng Lân nhận Liên Đoàn 15 BĐQ ra thay cho Trung Đoàn 51 Bộ Binh trở về lại Sư Đoàn 1. T́nh h́nh yên tĩnh trong khu vực trách nhiệm cho phép Tướng Lân giữ một lữ đoàn làm trừ bị sư đoàn và các tiểu đoàn thay phiên về khu vực hậu cứ ở Thủ Đức nghĩ hai tuần dưỡng quân và thăm viếng gia đ́nh. Mặc dầu phải trú quân và liên tục đối diện với kẻ thù Cộng Sản ở Quảng Trị từ đầu năm 1971, tinh thần chiến đấu của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được Pḥng Tùy Viên Quân Sự Mỹ ở Việt Nam (Defense Attache’s Office-DAO) đánh giá là cao nhất trong toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Khu vực trọng yếu nhất bảo vệ Huế là cầu An Lỗ bắc ngang qua sông Bồ, cách Huế 15 km về phía Bắc bở́ nếu khu vực này bị Bắc quân chiếm, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ bị cắt đứt ở Quảng Trị với lănh thổ c̣n lại của miền Nam Việt Nam. Do đó sư đoàn Nhảy Dù được giao trách nhiệm pḥng thủ khu vực này, tăng cường hai tiểu đoàn Địa Phương Quân, một chi đoàn chiến xa M-48 và một chi đoàn thiết vận xa M-113.

    Từ tháng 5 năm 1972 khi toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù được điều ra Quảng Trị để chuẩn bị phản công cho đến tháng Giêng năm 1974, sư đoàn đă bị thiệt hại 2 ngàn 900 chết, 12 ngàn bị thương và 300 mất tích. Với quân số khả dụng chỉ có 13 ngàn 500, có thể nói hầu hết các cấp chỉ huy tài ba cũng như những chiến binh dày dạn kinh nghiệm chiến trường đều đă chết hay bị thương. Các đơn vị Nhảy Dù v́ vậy có nhiều tân binh hay sĩ quan chưa dầy dạn kinh nghiệm chiến trường. Đến cuối năm 1973, tinh thần chiến đấu cao cũng như truyền thống anh dũng của binh chủng này bị phần nào giảm bớt khi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Miền Nam Việt Nam làm đời sống người lính và gia đ́nh, vốn đă khốn khổ, càng thêm bi đát. Phẩm chất của lính và sĩ quan mới ngày càng suy giảm cũng như số lượng bổ sung không đủ trám vào những tổn thất chiến trận.

    Tuy có khó khăn, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, vẫn duy tŕ hai tiểu đoàn làm trừ bị sư đoàn. Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 1 BB bị áp lực nặng và Trung Đoàn 3 phải rút bỏ hai cứ điểm vào cuối tháng 7 và bốn vị trí dọc sông Bồ vào cuối tháng 8. Một loạt các cứ điểm dọc theo Ngoc Ke Trai lọt vào tay quân Bắc Việt trong tháng 11 đă làm mệt mỏi tinh thần chiến đấu của lính cũng như yếu kém trong vấn đề chỉ huy ở Sư Đoàn 1 BB. Sư đoàn này rất lừng danh và đă từng được nhiều niềm ngưỡng mộ. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, phải cho tăng cường một tiểu đoàn củaTrung Đoàn 1 và một tiểu đoàn của Trung Đoàn 51 vào khu vực trách nhiệm của Trung Đoàn 3 ở tuyến sông Bồ.

    Chỉ đến sau khi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay Tướng Thân bằng Đại tá Nguyễn Văn Điềm vào ngày 31 tháng 10/1973 th́ pḥng tuyến mới ổn định. Tuy nhiên Đại tá Điềm cũng không cải thiện được nhiều về sự suy giảm về tinh thần của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, do vượt ngoài khả năng của ông mặc dầu ông đă phục vụ lâu dài ở đơn vị này. Sư Đoàn 1 BB phải bảo vệ một khu vực trải dài theo Quốc Lộ 1 luôn luôn bị áp lực nặng của Bắc quân cũng như thời tiết khắc nghiệt và ảnh hưởng của những cơn mưa bảo triền miên. Sự thiếu hụt về tiếp tế cho các vị trí tiền đồn trên miền rừng núi cộng với điều kiện sinh sống ngày càng khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế làm quyết tâm chiến đấu của người lính bị hao ṃn dần.

    Trung Đoàn 54 giữ khu vực núi Mơ Tàu và các vị trí quan trọng ở sông Tả Trạch, qua quận Phú Lộc đến tận chân đèo Hải Vân. Núi Bạch Mă với độ cao 1,448 mét ở Phú Lộc là một vị trí lư tưởng để khống chế Quốc Lộ 1 và cắt đứt hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên với lănh thổ c̣n lại của miền Nam Việt Nam. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa duy tŕ một cứ điểm ở đỉnh núi do hai đại đội Địa Phương Quân trú đóng, tiếp tế bằng trực thăng nhưng khi bị sương mù hay mưa lớn th́ phải tiếp tế khổ cực bằng chân. Tháng 9 năm 1973 Bắc Quân tấn công và chiếm cao điểm này.

    -------


  • II. MẶT TRẬN NAM HẢI VÂN

    Khu vực Nam Hải Vân ở Quân Khu 1 của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi và thành phố Đà Nẵng, nơi đặt bộ tư lệnh Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy từ mùa hè 1972. Đà Nẵng cũng có một căn cứ không quân, hải quân và tiếp vận/yểm trợ to lớn do Quân Đội Hoa Kỳ xây dựng và để lại cùng với bộ tư lệnh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh (BB), Sư Đoàn 1 Không Quân (KQ) và Hải Quân (HQ) Vùng 1 Duyên Hải. Với dân số 600,000 người, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ nh́ của Việt Nam Cộng Ḥa với tầm quan trọng chỉ kém thủ đô Sàig̣n. Ngoài Đà Nẵng, Quân Đội Mỹ cũng xây dựng mới một căn cứ quân sự lớn nằm sát biển Nam Hải trong tỉnh Quảng Tín ở giữa Tam Kỳ và ranh giới với Quảng Ngăi đặt tên là Chu Lai.

    Trước năm 1972, lực lượng đồng minh trấn đóng trong khu vực này gồm có Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ, Sư Đoàn 23 BB Mỹ (Americal) và Lữ Đoàn 2 TQLC Đại Hàn (Thanh Long) trong khi Quân Lực VNCH có Trung Đoàn 51 biệt lập chịu trách nhiệm Biệt Khu Quảng Đà và Sư Đoàn 2 BB chịu trách nhiệm toàn bộ khu vực c̣n lạI với bộ chỉ huy sư đoàn ở căn cứ Chu Lai cùng vớI Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh, Trung Đoàn 5 hoạt động gần HộI An (Quảng Nam), Trung Đoàn 6 tạI căn cứ Artillery Hill (Quảng Tín) và Trung Đoàn 4 tạI căn cứ Bronco (Quảng Ngăi). Do vùng trách nhiệm rộng lớn, Sư Đoàn 2 BB cũng được trợ lực bởi 6 tiểu đoàn Biệt Động Quân (BĐQ) Biên Pḥng. Sau khi lực lượng đồng minh triệt thoái và Trung Đoàn 51 biệt lập tăng cường cho Sư Đoàn 1 BB bảo vệ phía tây Huế, lực lượng Việt Nam Cộng Ḥa ở phía nam đèo Hải Vân bị yếu đi, không kể Sư Đoàn 2 BB là một trong các sư đoàn chủ lực yếu kém của VNCH. Tuy nhiên quân đội vẫn duy tŕ một mức độ kiểm soát an ninh vừa phải, được yểm trợ bởi một số phi vụ oanh kích chiến lược B-52 liên tục đánh xuống một vài mục tiêu chọn lọc.


    Đèo Hải Vân, tháng 10 năm 2005, với bảng giao thông trên đường (H̀NH ẢNH: Christina Kelsey).

    Sau khi Sư Đoàn 3 BB tân lập bị tan hàng ở Quảng Trị trong mùa hè 1972, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 cho tái xây dựng lại ở Trung Tâm Huấn Luyện (TTHL) Ḥa Cầm và giao cho trách nhiệm pḥng giữ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, dưới sự chỉ huy của vị tư lệnh mới là Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là tư lệnh Biệt Khu Quảng Đà và Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 1. Về phía Bắc Việt, khu vực Nam Hải Vân cùng với khu vực duyên hải Trung Phần của các tỉnh B́nh Định, Phú Yên, Phú Bổn và Khánh Ḥa thuộc quyền chỉ huy của Quân Khu 5 (bí danh B-1) với bộ chỉ huy thường nằm ở khu vực Hiệp Đức ở tận cùng của thung lũng Quế Sơn phân chia hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín.

    Thiếu Tướng Chu Huy Mân là tư lệnh (Mân sau lên đại tướng và nắm chức Chính Ủy Toàn Quân), Vơ Chí Công là chính ủy (Công sau làm chủ tịch nước Việt Nam Cộng Sản) và Đại Tá Đoàn Khuê là phó chính ủy (Khuê sau lên tướng giữ chức Tư Lệnh Quân Khu 5 rồi leo lên đến chức đại tướng và giữ chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng). Quân Khu 5 Cộng Sản có hai đại đơn vị chủ lực là Sư Đoàn 2 và 3 Bắc Việt. Sư Đoàn 2 hoạt động trong khu vực rừng núi phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngăi từ hậu cứ trong khu vực Hiệp Đức trong khi Sư Đoàn 3 (c̣n được gọi là sư đoàn "Sao Vàng") hoạt động ở phía nam Quảng Ngăi và B́nh Định từ hậu cứ ở mật khu An Lăo. Cuối năm 1971, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 (chiến dịch Nguyễn Huệ của Cộng Sản Bắc Việt), Quân Khu 5 Cộng sản cho thành lập Sư Đoàn 711 với 3 trung đoàn bộ binh gồm 31, 38 và 270 cùng Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ.

    Trong cuộc tổng tấn công này, Sư Đoàn 2 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) di chuyển vào khu vực Tam Biên (biên giới ba nước Việt Nam, Lào và Cam Bốt) để hỗ trợ cho Mặt Trận Tây Nguyên (bí danh B-3) trong trận đánh Kontum. Bị thiệt hại nặng nề, đơn vị này rút về hậu cứ ở khu vực Hiệp Đức để dưỡng quân và tái xây dựng. Để trả công cho mặt trận B-1, mặt trận B-3 cũng gởi theo Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320 về hoạt động trong tỉnh Quảng Ngăi. Sư Đoàn 3 CSBV, nổi tiếng với biệt danh Sao Vàng và hoạt động từ hậu cứ trong mật khu An Lăo, tấn công và chiếm đóng ba quận Hoài Ân, Hoài Nhơn và Tam Quan ở phía bắc tỉnh B́nh Định.

    Sau khi tan hàng ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 22 BB được tái xây dựng lại và sau đó đă cùng Biệt Động Quân tái chiếm lại ba quận trên, gây thiệt hại nặng cho Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Mặt Trận B-1 cũng cho Sư Đoàn 711 được Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ tiến chiếm các quận lỵ Quế Sơn, Tiên Phước và Ba Tơ và gây áp lực nặng lên khu vực Mộ Đức và Đức Phổ trong tỉnh Quảng Ngăi. Đơn vị này sau đó đă bị thiệt hại nặng khi Quân Đoàn 1 dùng Sư Đoàn 2 và 3 BB cùng Biệt Động Quân tái chiếm lại các vùng đất bị mất ở khu vực Nam Hải Vân.

    T̀NH H̀NH QUÂN SỰ CUỐI NĂM 1972

    Phối hợp với các mặt trận khác trong cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972, và để giảm bớt áp lực của Quân Lực VNCH trong nổ lực tái chiếm lại thị xă Quảng Trị trong khu vực Bắc Hải Vân, Quân Khu 5 Cộng Sản cho Sư Đoàn 711 với Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ mở nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ vào thung lũng Quế Sơn, tiến chiếm các quận lỵ Hiệp Đức, Quế Sơn và Tiên Phước. Bị mất ba quận lỵ trong khu vực trách nhiệm của ḿnh, Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp xin từ chức dù Sư Đoàn 2 BB sau đó đă tái chiếm lại quận lỵ Quế Sơn và “người hùng An Lộc” Đại Tá Trần Văn Nhựt ra nắm chức tư lệnh Sư Đoàn 2 BB vào ngày 28 tháng 8/1972 khiến khả năng chiến đấu của đơn vị này cải thiện nhiều so với lúc trước.

    Khi này Trung Đoàn 5 và 6 của Sư Đoàn 2 BB bị thiệt hại nặng trong các trận đánh với Sư Đoàn 711 Bắc Việt (sau khi chiếm Quế Sơn đang lấn ra quận Duy Xuyên để uy hiếp Đà Nẵng), đang được bổ sung quân số bằng cách đôn quân từ lực lượng Địa Phương Quân/Nghĩa Quân trong hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngăi. Trung Đoàn 4 tăng cường cho Sư Đoàn Nhảy Dù ở mặt trận Quảng Trị vừa trở về. Đổi lại Sư Đoàn 2 BB được tăng cường với Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 BB để đảm nhiệm phần lănh thổ trách nhiệm chạy dài 150 km theo Quốc Lộ 1 đến biên giới tỉnh B́nh Định của Quân Khu 2.

    Cuối tháng Chín, Trung Đoàn 5 vào tăng cường cho Tiểu Đoàn 77 Biệt Động Quân Biên Pḥng nhưng vẫn không giữ được Tiên Phước. Đại Tá Nhựt cho mở các cuộc hành quân để lấy lại thế chủ động và giải tỏa áp lực địch trong khu vực trách nhiệm, tập trung vào tỉnh Quảng Ngăi nơi Sư Đoàn 2 CSBV và Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320 vừa chuyển về từ mặt trận Kontum. Đầu tiên là hành quân tái chiếm Tiên Phước với Trung Đoàn 6 tăng cường Trung Đoàn 2 từ Sư Đoàn 3 BB. Sau đó Sư Đoàn 2 BB cho Trung Đoàn 4 và 5 BB tăng cường Liên Đoàn 2 BĐQ và Tiểu Đoàn 78 Biệt Động Quân Biên Pḥng, được Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh yểm trợ mở cuộc hành quân giải tỏa Mộ Đức và Đức Phổ đang bị áp lực của Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 3 Sao Vàng.

    Sau thắng lợi Tiên Phước, Trung Đoàn 6 và Liên Đoàn 1 BĐQ mở cuộc hành quân giải tỏa khu vực bán đảo Ba Làng An với ngôi làng Mỹ Lai nổi tiếng. Trung Đoàn 5 cố gắng trái chiếm lại Ba Tơ do Trung Đoàn 52 CSBV giữ nhưng không thành công. Sau khi Sư Đoàn 3 BB tân lập bị tan hàng ở Quảng Trị trong mùa hè 1972, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 cho tái xây dựng lại ở Trung Tâm Huấn Luyện Ḥa Cầm và giao cho trách nhiệm pḥng giữ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là ở hướng tây nam qua ngă thung lũng Quế Sơn và quận Đức Dục nơi mà Sư Đoàn 711 Bắc Việt đă cố chiếm được các mục tiêu quan trọng đặt phi trường và thành phố Đà Nẵng trong tầm pháo.

    Sư Đoàn 3 BB dùng Trung Đoàn 2 tăng cường Trung Đoàn 6 của Sư Đoàn 2 BB sau đó đă tái chiếm lại Tiên Phước, lấy lại tinh thần và niềm tin sau cuộc triệt thoái cay đắng khỏi Quảng Trị. Sư Đoàn 3 BB cũng tiến dần vào khu vực Hiệp Đức với căn cứ Ross là vị trí tiền đồn sâu nhất trong thung lũng Quế Sơn. Do thành quả này, Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh là tư lệnh sư đoàn duy nhất của Quân Lực VNCH được thăng cấp Thiếu Tướng trong năm 1973 và Sư Đoàn 3 BB được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH đánh giá là một trong những sư đoàn khá nhất của quân đội..

    Từ hậu cứ ở Hiệp Đức, Sư Đoàn 711 Bắc Việt dàn quân trên các sườn núi hai bên thung lũng để chờ cơ hội tiến ra khu vực đồng bằng duyên hải. Cuối năm 1972 Sư Đoàn 3 BB mở cuộc hành quân tấn công vào khu vực căn cứ địa của Quân Khu 5 Cộng Sản ở Hiệp Đức và tiến khá sâu nên Trung Tướng Ngô Quang Trưởng khai thác thuận lợi này, cho tăng cường Trung Đoàn 51 từ Sư Đoàn 1 BB vào ngày 03 tháng 1/1973. Chuẩn Tướng Hinh dùng Trung Đoàn 51 để tấn công vào khu vực căn cứ West ở đồi 1460 bảo vệ Hiệp Đức từ phía đông trong khi Trung Đoàn 2 kiểm soát tỉnh lộ 534 dẫn vào Hiệp Đức.

    Tuy nhiên đến cuối tháng Giêng năm 1973, Sư Đoàn 3 BB phải hủy bỏ cuộc hành quân này để rút về yểm trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân/Nghĩa Quân giải tỏa các cuộc hành quân “dành dân lấn đất” trước ngày ngưng bắn trong các khu vực phía tây và tây nam Đà Nẵng trong các quận Hiếu Đức, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đức Dục và Quế Sơn. Mặc dầu chỉ có hai sư đoàn bộ binh tương đối yếu cùng các đơn vị BĐQ Biên Pḥng và Địa Phương Quân/Nghĩa Quân, Quân Lực VNCH vẫn có thể bảo vệ các trung tâm dân cư chính cũng như Quốc Lộ 1 huyết mạch chạy dọc theo bờ biển Nam Hải do các đơn vị Bắc quân không hùng hậu như ở phía bắc đèo Hải Vân và cả hai đơn vị chủ lực chính, Sư Đoàn 2 và 711, đều bị thiệt hại nặng nề.

    T̀NH H̀NH QUÂN SỰ SAU NGÀY NGƯNG BẮN

    Trong chiến dịch “dành dân, lấn đất,” quân Bắc Việt cho các đơn vị địa phương tấn công vào các quận lỵ, thôn xóm cũng như cắt đứt các trục giao thông liên lạc trên khắp khu vực Nam Hải Vân và pháo kích hỏa tiển vào Đà Nẵng. Tuy nhiên Quân Lực VNCH sau đó đă kịp thời mở các cuộc hành quân giải tỏa lấy lại được hầu hết các khu vực bị tạm chiếm cũng như gây thiệt hại nặng cho các đơn vị Bắc quân. Lúc ấy, ở phía nam tỉnh Quảng Ngăi đă xảy ra một trận đánh quan trọng trong giai đoạn ngừng bắn.

    TRẬN ĐÁNH SA HUỲNH

    Sa Huỳnh là một làng chài lưới và làm muối biển với 3,000 cư dân nằm ở phía nam quận Đức Phổ trên Quốc Lộ 1 tiếp giáp với tỉnh B́nh Định thuộc lănh thổ Quân Khu 2 do một tiểu đoàn Địa Phương Quân của tỉnh Quảng Ngăi bảo vệ. Do đây là một cửa khẩu quan trọng trên Quốc Lộ 1 huyết mạch nối liền hai quân khu cực bắc của Việt Nam Cộng Ḥa nên Quân Khu 5 Cộng Sản đă chuẩn bị đánh chiếm để gây bất lợi về cả quân sự lẩn chính trị cho chính phủ VNCH. Mặt Trận B-1 sử dụng Trung Đoàn 141 tăng cường một tiểu đoàn của Trung Đoàn 1 từ Sư Đoàn 2 CSBV tấn công Sa Huỳnh từ hướng bắc trong khi hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 12 từ Sư Đoàn 3 Sao Vàng trong tỉnh B́nh Định tấn công từ phía nam vào ngày 27 tháng 1/1973.

    Bị sáu tiểu đoàn Bắc quân tràn ngập, đơn vị Địa Phương Quân rút về cố thủ trong một cứ điểm cuối cùng trước khi thất thủ vào ngày hôm sau. Quốc Lộ 1 bị cắt đứt từ phía nam quận Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngăi trong lănh thổ Quân Khu 1 đến phía bắc quận Tam Quan của tỉnh B́nh Định trong lănh thổ Quân Khu 2. Do vị trí chiến lược quan trọng của Sa Huỳnh và để trả đủa hành vi xâm phạm hiệp định ngưng bắn ở Cửa Việt ở khu vực Bắc Hải Vân, Sư Đoàn 2 BB cho mở cuộc hành quân tái chiếm lại Sa Huỳnh.


    Một ngôi làng gần cửa biển Sa Huỳnh (H̀NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).


    Trung Đoàn 5 BB từ Quảng Tín vào đánh giải tỏa nhưng không thành công. Quân Khu 5 Cộng Sản cho tăng cường một tiểu đoàn pḥng không và một đại đội hỏa tiển AT-3 (hỏa tiển chống chiến xa) yểm trợ cho sáu tiểu đoàn Bắc quân “đóng chốt” trên sườn núi và giữa Quốc Lộ 1 và bờ biển. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng phải cho tăng cường Liên Đoàn 1 BĐQ từ mặt trận Quảng Trị di chuyển vào Mộ Đức rồi tiến về Sa Huỳnh theo Quốc Lộ 1, thanh toán các mục tiêu dọc theo bờ biển trong khi Trung Đoàn 5 tiến chiếm các mục tiêu trên sườn núi. Quân Lực VNCH tiến rất chậm do địa thế hiểm trở trong khi Bắc quân “đóng chốt” trong các công sự pḥng thủ kiên cố. Các đơn vị VNCH phải áp dụng chiến thuật đánh chốt ban đêm cũng như chặn đường liên lạc, tiếp tế và tải thương của Bắc quân ở phía sau.

    Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt cũng cho thi hành các hoạt động nghi binh như cho Trung Đoàn 4 BB ra vẻ chuẩn bị tái chiếm Ba Tơ để cầm chân Trung Đoàn 52 CSBV, không cho tăng viện cho Sa Huỳnh đồng thời cho quân vận hạm của Hải Quân VNCH chở binh sĩ với thiết vận xa M-113 chạy sát bờ biển và cho bắn phá vào khu vực này như sắp mở cuộc hành quân đổ bộ để thu hút Bắc quân ra hướng bờ biển. Tướng Nhựt cũng gởi các toán viễn thám vào sâu phía sau để báo cáo các hoạt động tăng viện cho Sa Huỳnh từ hướng mật khu An Lăo trong tỉnh B́nh Định của Sư Đoàn 3 Sao Vàng để cho quân đội VNCH dùng hỏa lực phi pháo tiêu diệt. Ngày 16 tháng 2 tướng Nhựt cho Trung Đoàn 4 BB được Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh yểm trợ đánh thẳng vào dứt điểm Sa Huỳnh. Bắc quân cố chống trả nhưng cuối cùng phải rút bỏ để lại trên 600 xác.

    T̀NH H̀NH MẶT TRẬN NAM HẢI VÂN SAU NGÀY NGỪNG BẮN

    Khi hiệp định ngừng bắn Paris có hiệu lực th́ tương tự như khu vực Bắc Hải Vân, phía CSBV kiểm soát được khu vực rừng núi thưa dân ở phía tây bao gồm quận lỵ Ba Tơ trong tỉnh Quảng Ngăi trong khi phía Việt Nam Cộng Ḥa kiểm soát khu vực đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp đông dân chạy dài từ đèo Hải Vân đến biên giới tỉnh B́nh Định thuộc Quân Khu 2 bao gồm khu vực đồng bằng lớn nhất Miền Trung xung quanh thành phố Đà Nẵng. Quân Lực VNCH cũng duy tŕ các tiền đồn nằm sâu trong các khu vực rừng núi ở phía tây do Bắc quân kiểm soát như Thượng Đức, Đức Dục (Quảng Nam), Tiên Phước, Hậu Đức (Quảng Tín), Gia Vực, Minh Long (Quảng Ngăi). Sau trận đánh Sa Huỳnh, t́nh h́nh quân sự tương đối yên tỉnh so với ba quân khu khác và an ninh ở miền quê ổn định đến mức dân cư chạy nạn chiến tranh trong mùa hè 1972 đă trở về xây dựng lại cuộc sống mớI dưới sự bảo vệ của Quân Lực VNCH.

    Giữa năm 1973 do bị thiệt hại nặng nề, Quân Khu 5 Cộng Sản cho giải tán Sư Đoàn 711 và Trung Đoàn 270 của sư đoàn này. Trung Đoàn 31 và 38 sát nhập qua Sư Đoàn 2 CSBV trong khi các đơn vị c̣n lại được sát nhập vào Trung Đoàn 52 để h́nh thành Lữ Đoàn 52, hoạt động trong khu vực Quảng Ngăi. Được bổ sung chiến xa, đại pháo và súng pḥng không từ Miền Bắc trong nổ lực tái xây dựng lực lượng chiến đấu trong Miền Nam bị thiệt hại nặng nề sau cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 và vi phạm trắng trợn hiệp định ngừng bắn, Quân Khu 5 cho thành lập Trung Đoàn 571 Thiết Giáp, Trung Đoàn 572 Pháo Binh và Trung Đoàn 573 Pḥng Không là lực lượng yểm trợ chiến đấu chính của quân khu từ Trung Đoàn 572 Thiết Giáp-Pḥng Không cũ.


    H́nh chụp vào mùa hè năm 1973 tại một ngôi làng nằm gần và về hướng tây Saigon. Vài người lính VNCH cùng một ông lăo trong làng đang xem bản tin trên nhật báo nói về Hiệp Định Paris, một hiệp định đ́nh chiến được kư kết giữa ba quốc gia để mang "ḥa b́nh" đến trên toàn lănh thổ Việt Nam. (H̀NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).
    Sư Đoàn 3 BB do Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh chỉ huy chịu trách nhiệm tỉnh Quảng Nam bao gồm thành phố Đà Nẵng cho đến thung lũng Quế Sơn ngay ranh giới Quảng Tín. T́nh h́nh ổn định cho phép tướng Hinh giữ toàn bộ Trung Đoàn 2 làm trừ bị sư đoàn trong khi Trung Đoàn 56 đóng ở phía nam quận Đại Lộc và phía bắc quận Đức Dục và Trung Đoàn 57đóng ở thung lũng Quế Sơn, mỗi trung đoàn giữ một tiểu đoàn là trừ bị trung đoàn. Tướng Hinh, một trong các tư lệnh sư đoàn hữu hiệu nhất của Quân Lực VNCH, tin tưởng rằng đơn vị ông có thể bảo vệ được Đà Nẵng.

    Trong khu vực 9 quận của tỉnh Quảng Nam, quân đội kiểm soát khu vực đồng bằng xung quanh Đà Nẵng nhưng 5 quận lỵ vẫn nằm trong tầm bắn của đại pháo 130 ly của quân Bắc Việt, đáng lo ngại nhất là Thượng Đức và Đức Dục nằm xa nhất về hướng Tây và Tây-Nam Ở phía nam, Sư Đoàn 2 BB dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt đă phải gánh nhiệm một trọng trách nặng nề và khó khăn là bảo vệ 150 km của Quốc Lộ 1 với nhiều cầu cống qua hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngăi cùng khu vực đồng bằng duyên hải và các trung tâm dân cư dọc theo quốc lộ này, không kể vị trí chiến lược Sa Huỳnh tiếp giáp với Quân Khu 2.

    Tướng Trưởng v́ vậy thường tăng cường một hay hai liên đoàn Biệt Động Quân trong khu vực hành quân của tướng Nhựt. Sau thắng lợi Sa Huỳnh, tướng Nhựt cho Sư Đoàn 2 BB và BĐQ yểm trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân/Nghĩa Quân mở các cuộc hành quân giải tỏa ở phía tây Quốc Lộ 1để mở rộng khu vực an ninh hoạt động cũng như cắt đứt các đường tiếp tế của Bắc quân và cô lập họ với nguồn lương thực cũng như nhân lực cho công tác tuyển quân ở khu vực đồng bằng.

    Trung Đoàn 4 được giao cho nhiệm vụ quan trọng bảo vệ Sa Huỳnh và quận Đức Phổ. Trung Đoàn 5 hoạt động trong khu vực Mộ Đức trong khi Liên Đoàn 11 BĐQ dưới quyền chỉ huy hành quân của tướng Nhựt hoạt động trong quận Sơn Tịnh phía bắc thị xă Quảng Ngăi. Trung Đoàn 6 chịu trách nhiệm từ bộ tư lệnh sư đoàn ở Chu Lai đến phía bắc Tam Kỳ. Ngoài các hoạt động quấy phá như giật sập cầu trên Quốc Lộ 1 hay tấn công các thôn xóm hẻo lánh vào ban đêm, Bắc quân tập trung nổ lực tái xây dựng lại lực lượng chiến đấu, các căn cứ tiếp vận cũng như con đường chiến lược mới Đông Trường Sơn nối liền từ thung lũng A Shau xuống Bến Giang trong tỉnh Quảng Nam để nối vào Quốc Lộ 14, chuẩn bị chờ thời cơ để tiến chiếm Miền Nam.

    III. TỪ THẤT SƠN ĐẾN ĐỒNG THÁP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:

    Khu vực đồng bằng sông Cửu Long, c̣n gọi là Miền Tây, là viên ngọc quí của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Những cánh đồng lúa bạt ngàn và những vườn cây ăn trái xum xuê do phù sa của hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang bồi đấp cùng một hệ thống 4,800 km (2,982 miles) sông, rạch, kinh đào chằng chịt là vựa lúa của VNCH, cung cấp gần 75% nhu cầu thực phẩm của cả nước. Hơn phân nửa dân số toàn quốc (khoảng 9 triệu người) sống đông đúc trong khu vực này, thuộc lănh thổ Quân Khu 4, là nguồn nhân lực chính cho công tác tuyển quân. Khu vực này do đó có vai tṛ vô cùng trọng yếu về kinh tế và quân sự, ảnh hưởng đến sự sống c̣n của Miền Nam Việt Nam.

    Giao thông bằng thủy lộ do đó có vai tṛ vô cùng quan trọng ở khu vực này và việc kiểm soát các thủy lộ này, chận đứng nổ lực tiếp tế liên lạc và vận chuyển lương thực của Cộng Sản là một trong những mục tiêu chính của chính phủ VNCH trong chiến trận ở Miền Tây. Quân Khu 4 cũng có một biên giới dài giáp với Cam Bốt, chạy dài từ Hà Tiên sát vịnh Thái Lan đến khu vực Mỏ Vẹt (Parrot’s Beak) giáp với tỉnh Hậu Nghĩa của Quân Khu 3. Từ Hà Tiên đến thị xă Châu Đốc có bảy ngọn núi nhỏ nhô lên khống chế khu vực đồng bằng xung quanh từ Tịnh Biên đến Tri Tôn, bao gồm núi Sam nổi tiếng gần thị xă Châu Đốc với Chùa Bà và ngày hội lớn hằng năm. Khu vực bảy ngọn núi này do đó c̣n có tên là Thất Sơn. Trong khu vực này Quân Lực VNCH cũng có Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Chi Lăng, đảm trách việc huấn luyện cho các đơn vị Quân Lực VNCH ở Quân Khu 4.


    Sông nước Vĩnh Long, nơi đóng quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh VNCH
    (H̀NH ẢNH: Daniel Guip)


    Từ Tân Châu đến khu vực Mỏ Vẹt là khu vực Đồng Tháp bao la, đồng lầy ngập nước vào mùa mưa như một biển hồ, có nơi sâu đến 4, 5 mét khiến tàu bè là phương tiện di chuyển đi lại duy nhất. Khu vực biên giới này do đó đă được Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) xây dựng thành một khu vực căn cứ địa (nối liền với hệ thống căn cứ địa trên đất Cam Bốt và hệ thống đường vận chuyển tiếp tế Sihanouk từ cảng Sihanoukville hay Kompong Som) và hành lang xâm nhập và tiếp tế cho cả khu vực Tiền Giang (chủ yếu là Định Tường và Kiến Ḥa) lẫn Hậu Giang (chủ yếu là Chương Thiện và U Minh). Quốc Lộ 4 huyết mạch chạy dài qua Miền Tây và hai con sông lớn Tiền Giang và Hậu Giang nối liền thủ đô Saigon và Cà Mau là mạch máu kinh tế của Miền Nam và là trọng điểm an ninh của VNCH ở Miền Tây.

    Quân Khu 4 bao gồm 16 tỉnh: Định Tường, G̣ Công, Kiến Ḥa, Vĩnh Long, Vĩnh B́nh, Sa Đéc, Kiến Phong, Kiến Tường, An Giang, Châu Đốc, Kiên Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 đặt ở Cần Thơ, thành phố lớn nhất Miền Tây bên bờ sông Hậu Giang, c̣n được biết với tên Tây Đô. Cần Thơ cũng có phi trường Trà Nóc, căn cứ không yểm chính của Miền Tây và là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân. Ở B́nh Thủy cũng có Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Sông Ng̣i và căn cứ hải quân. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 từ mùa hè 1972, thay thế Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra chỉ huy Quân Đoàn 1 sau khi tỉnh Quảng Trị mất vào tay CSBV trong cuộc tổng tấn công Xuân Hè 1972.

    Tướng Nghi, nguyên là tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (BB), tiếp tục truyền thống của sư đoàn hoàng gia này, từng được chỉ huy bởi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, thủ tướng chính phủ và Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh và quân sự cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Nghi đă chứng tỏ tài chỉ huy cấp quân đoàn hiệu quả trong giai đoạn 1972-73 nhưng Sư Đoàn 21 BB từ vị trí sư đoàn thiện chiến nhất trong thập niên 1960 trở thành sư đoàn yếu kém nhất trong thập niên 1970 ở chiến trường Miền Tây.

    NHỮNG CHIẾN SĨ S̀NH LẦY

    Quân Đoàn 4, chỉ huy toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH trên lănh thổ Quân Khu 4, với Sư Đoàn 7, 9 và 21 BB cùng Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân (BĐQ) là đơn vị trừ bị chiến thuật, yểm trợ bởi 200,000 lính Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ). Do lính ĐPQ và NQ được tuyển mộ để phục vụ ở địa phương, với dân số gần phân nửa dân số toàn quốc, lực lượng ĐPQ/NQ của Quân Khu 4 chiếm gần phân nửa quân số của lực lượng ĐPQ/NQ toàn quốc và đông gấp 3 lần lực lượng ĐPQ/NQ ở Quân Khu 2 cũng như gấp đôi lực lượng này ở Quân Khu 1 và 3.

    Tổ chức thành 144 tiểu đoàn và 125 đại đội độc lập trú đóng trong 3,400 cứ điểm, lực lượng này đă góp phần không nhỏ trong nỗ lực b́nh định, giữ ǵn an ninh cho các thôn xóm, đồng ruộng và vườn tược, hệ thống giao thông liên lạc rộng khắp cả trên bộ lẫn dưới nước, đặc biệt là hằng ngàn cây cầu lớn nhỏ bắt qua hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt của Miền Tây. Sinh ra và lớn lên ở địa phương, người lính ĐPQ/NQ rất quen thuộc với địa h́nh phong thổ trong khu vực hoạt động cũng như chiến thuật du kích, ḿn bẫy của cộng quân.

    Tuy nhiên hầu hết các đơn vị đều bị thiếu hụt quân số, đặc biệt là sĩ quan chỉ huy do phải hành quân thường xuyên và nạn lính ma lính kiểng. Sau khi phải rút bỏ 97 cứ điểm và mất 193 cái khác sau các cuộc đột kích của cộng quân trong năm 1973 ở Quân Khu 4, Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) Quân Lực VNCH và tướng Nghi, tư lệnh Quân Đoàn 4, cho rút bỏ các tiền đồn xa xôi, hẻo lánh, bị cô lập và khó tiếp tế cũng như gia tăng tính cơ động cho các tiểu đoàn ĐPQ để gia tăng hiệu quả chiến đău và giảm thiệt hại. (Để biết rơ hơn về cuộc chiến đău thầm lặng nhưng dai dẳng của những người lính ĐPQ/NQ ở Miền Tây, xin xem bài Viết Về Người Lính Địa Phương Quân của Nguyễn Hữu Nghĩa).

    Trong thập niên 1960, ba tiểu đoàn BĐQ mang số 42,43 và 44 của Liên Đoàn 4 BĐQ và một số đơn vị của Sư Đoàn 21 BB đă tạo nhiều chiến công hiển hách ở Miền Tây, tạo nên huyền thoại về những chiến sĩ śnh lầy và những cấp chỉ huy tài ba như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Minh Đảo, Lê Văn Hưng. Riêng Tiểu Đoàn 42 BĐQ do Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt (nguyên là Đại Đội Trưởng Đại Đội 21 Trinh Sát) chỉ huy nổi tiếng dưới danh hiệu Cọp Ba Đầu Rằn, đă được hai lần tuyên dương công trạng của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation) cũng như Tiểu Đoàn 44 BĐQ cũng được tuyên dương công trạng này một lần.

    Đầu năm 1968, cũng để giảm bớt gánh nặng cho ba sư đoàn chủ lực của Quân Lực VNCH hoạt động ở Quân Khu 4, Biệt Khu 44 được h́nh thành để bảo vệ khu vực biên giới với Cam Bốt, kéo dài từ Hà Tiên trong tỉnh Kiên Giang đến khu vực Mỏ Vẹt ngay biên giới Kiến Tường-Long An, bao gồm các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc, và khu vực biên giới của tỉnh Kiên Giang, với Bộ Tư Lệnh ở thị xă Cao Lănh. Đơn vị chiến đău chính của Biệt Khu 44 là Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh, sử dụng Liên Đoàn 4 BĐQ, 8 tiểu đoàn BĐQ Biên Pḥng và 5 thiết đoàn kỵ binh của Quân Đoàn 4. Từ sau cuộc hành quân vượt biên sang Cam Bốt trong năm 1970 đến cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 của Cộng Sản Bắc Việt, Biệt Khu 44 duy tŕ hai căn cứ tiền phương trên đất Cam Bốt ở Neak Luong và Kompong Trach, do các đơn vị Biệt Động Quân giữ để bảo vệ khu vực biên giới.

    Lănh thổ của Quân Khu 4 được phân chia trách nhiệm cho 3 sư đoàn chủ lực. Sư Đoàn 7 BB với bộ tư lệnh ở căn cứ Đồng Tâm gần thị xă Mỹ Tho, chịu trách nhiệm các tỉnh Định Tường, G̣ Công và Kiến Ḥa. Sư Đoàn 9 BB với bộ tư lệnh ở Sa Đéc, sau dời về Vĩnh Long, chịu trách nhiệm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh B́nh, Sa Đéc, An Giang và một phần tỉnh Kiên Giang, bao gồm thị xă Rạch Giá. Sư Đoàn 21 BB với bộ tư lệnh ở Bạc Liêu, chịu trách nhiệm các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, và An Xuyên. Các thiết đoàn kỵ binh của binh chủng Thiết Giáp ở Miền Tây đều chỉ trang bị với thiết vận xa M-113 do chiến xa M-41 và M-48 không thích hợp với địa h́nh śnh lầy ngập nước.

    Sư Đoàn 4 Không Quân với hai phi trường lớn ở Trà Nóc (Cần Thơ) và Sóc Trăng cung cấp các hoạt động không yểm. Do địa thế bờ biển dài với hai đảo Phú Quốc và Côn Sơn cùng với hệ thống sông rạch và kinh đào đan kín cả Miền Tây, Hải Quân VNCH có sự hiện diện mạnh mẽ ở Quân Khu 4 với Vùng 4 và Vùng 5 Duyên Hải và Vùng 4 Sông Ng̣i để bảo vệ các thủy lộ và khu vực bờ biển, ngăn chận các hoạt động liên lạc tiếp tế của cộng quân cũng như yểm trợ cho các đơn vị bạn trên bờ. Vùng 4 Sông Ng̣i với Bộ Tư Lệnh ở Cần Thơ chỉ huy 7 giang đoàn xung phong trú đóng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ và Long Xuyên cùng các đơn vị yểm trợ.

    Ngoài ra c̣n có sự tăng cường của ba lực lượng đặc nhiệm (LLĐN) hải quân là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211 (Thủy Bộ), Lực Lượng Đặc Nhiệm 212 (Tuần Thám) và Lực Lượng Đặc Nhiệm 214 (Trung Ương). Lực Lượng Đặc Nhiệm 212 (Tuần Thám) với Bộ Tư Lệnh ở Châu Đốc chỉ huy 14 giang đoàn tuần thám bảo vệ khu vực sông rạch dọc theo biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Lực Lượng Đặc Nhiệm 214 (Trung Ương) với Bộ Tư Lệnh ở căn cứ Đồng Tâm chỉ huy các giang đoàn ngăn chận. Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ thường kết hợp các giang đoàn xung phong yểm trợ cho các đơn vị bộ chiến trong các cuộc hành quân truy lùng Cộng Sản trên các vùng sông rạch và kinh đào.

    Đầu năm 1974 các lực lượng đặc nhiệm ở Quân Khu 4 được sát nhập lại thành Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 do Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng chỉ huy tổng cộng 362 tàu đủ loại, hoạt động từ 17 căn cứ trên khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tướng Thăng cũng chỉ huy đơn vị Hải Quân Vùng 4 Sông Ng̣i. Vùng 4 Duyên Hải với Bộ Tư Lệnh ở căn cứ An Thới trên đảo Phú Quốc chịu trách nhiệm từ biên giới lănh hải với Cam Bốt đến mũi Cà Mau với 26 tàu tuần trên biển trong khi Vùng 5 Duyên Hải với Bộ Tư Lệnh ở Năm Căn (Cà Mau) chịu trách nhiệm dọc theo bờ biển từ mũi Cà Mau đến khu vực biển G̣ Công và Cần Giờ (Long An) với 27 tàu tuần biển.

    Theo tổ chức của quân đội Cộng Sản Bắc Việt, khu vực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm luôn tỉnh Long An trực thuộc Mặt Trận Nam Bộ (hoặc Mặt Trận "B-2") với Quân Khu 8 trông coi khu vực Tiền Giang và Quân Khu 9 trông coi khu vực Hậu Giang. Sau khi được thăng vượt hai cấp cùng với Đồng Sỹ Nguyên trong kỳ thăng cấp cho các sĩ quan cao cấp toàn quân vào đầu năm 1974, Trung Tướng Lê Đức Anh giữ chức Tư Lệnh Quân Khu 9 kiêm Phó Tư Lệnh Mặt Trận B-2 trong khi Vơ Văn Kiệt là Chính Ủy.

    Ở Quân Khu 8, Thiếu Tướng Đồng Văn Cống là tư lệnh trong khi Thiếu Tướng Lê Văn Tưởng là Chính Ủy. Trừ khu vực núi Thất Sơn ở khu vực Hà Tiên-Châu Đốc và khu vực đầm lầy ngập nước U Minh (chạy dài từ Rạch Giá qua Chương Thiện xuống đến Cà Mau) và Đồng Tháp Mười giáp với biên giới Cam Bốt, toàn bộ lănh thổ c̣n lại là khu vực đồng bằng ph́ nhiêu nối liền nhau bởi một hệ thống thủy lộ rộng khắp và dầy đặc với phong cảnh vẫn c̣n mang nét đồng quê, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích theo kiểu Cộng Sản.

    Trừ các khu vực căn cứ địa đă được xây dựng trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất như U Minh và Đồng Tháp là nơi các trung đoàn chủ lực trú đóng, các đơn vị du kích Cộng Sản thường phân tán thành các đơn vị nhỏ cấp tiểu đoàn trở xuống để tiện việc cơ động cũng như phân tán khi bị rượt đánh. Quân đội Bắc Việt có 11 trung đoàn chủ lực hoạt động ở Miền Tây trước giai đoạn ngừng bắn. Trung Đoàn 18B, 95A, D1 và D2 hoạt động trong khu vực U Minh Thượng-Chương Thiện trong khi Trung Đoàn 24, 88, và Đồng Tháp 1 hoạt động trong khu vực Định Tường, Trung Đoàn 320 hoạt động trong tỉnh Long An và Trung Đoàn Z-15 và Z-18 hoạt động trong khu vực Kiến Tường.

    Trung Đoàn D-3 hoạt động trong khu vực ranh giới hai tỉnh Vĩnh Long và Vĩnh B́nh. Các đơn vị cộng quân thường được trang bị nhẹ và được yểm trợ chủ yếu bằng đại bác không giật (DKZ) và súng cối. Du kích Cộng Sản cũng sống lẫn vào dân, hoạt động tiếp cận với các viên chức chính quyền và người lính VNCH để ḍ la tin tức, tiếp tay cho các hoạt động đặc công, khủng bố, phá hoại. Đặc biệt là ở các vùng xôi đậu (vùng tranh chấp giữa hai bên VNCH và Cộng Sản) phe VNCH kiểm soát ban ngày nhưng phe CSBV kiểm soát vào ban đêm khiến người dân phải chịu nhiều áp lực từ cả hai phía.

    Quân Khu 4 do đó trở thành trọng điểm cho nổ lực dành dân, tuyển quân và thu mua lương thực của CSBV và nổ lực b́nh định và tuyển quân của VNCH. Mặc dầu chiến lược của Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận B-2 cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long thay đổi thường xuyên, cuối năm 1969, Quân Ủy Trung Ương và Bộ Chính Trị Đảng CSVN xác định vai tṛ quan trọng chiến lược của khu vực này, cũng như chiến trường quan trọng ảnh hưởng đến kết thúc cuộc chiến. Sau đó Sư Đoàn 1 CSBV đang hoạt động ở khu vực Tây Nguyên đă di chuyển vào Nam và hoạt động dọc theo khu vực Hà Tiên-Thất Sơn từ khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt.

    Sư đoàn này cũng phân tán các đơn vị trực thuộc, xâm nhập vào các căn cứ địa ở Miền Tây để tiếp tay cho các trung đoàn và tiểu đoàn chủ lực địa phương. Về phía VNCH, khu vực đồng bằng sông Cửu Long trở thành trọng điểm của nổ lực b́nh định của liên quân VNCH và Hoa Kỳ sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Trước đó lực lượng bộ chiến Mỹ và các nước Đồng Minh tập trung hoạt động ở ba quân khu phía trên trong khi Quân Khu 4 do địa h́nh phong thổ và vấn đề xă hội-lịch sử, hoàn toàn thuộc trách nhiệm của Việt Nam Cộng Ḥa.


    "Những Chiến Sĩ Śnh Lầy" đang hành quân trên sông ng̣i miền Nam
    (H̀NH ẢNH: Fritz Degner)

    Sư Đoàn 9 BB Hoa Kỳ với hai lữ đoàn di chuyển xuống hoạt động trong các tỉnh Long An, Định Tường và Kiến Ḥa. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn cũng di chuyển từ Long Thành xuống Đồng Tâm cùng lúc với sự h́nh thành Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy bộ (Mobile Riverine Force), cùng với các toán biệt kích SEAL của Hải Quân Mỹ hoạt động trong khu vực Rừng Sát phía nam thủ đô Saigon và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. (Ghi chú tác giả: Cựu thương nghị sĩ và thống đốc tiểu bang Nebraska ở Hoa Kỳ, ông Bob Kerrey từng là sĩ quan SEAL hoạt động trong khu vực này cũng như dọc theo duyên hải Việt Nam, từng bị chấn thương nặng ngoài khơi Nha Trang trong năm 1969, phải cưa chân và được ân thưởng huy chương cao quí nhất cho quân nhân Mỹ trong chiến đău Congressional Medal of Honor.

    Ông Kerrey cũng bị đề cập trong vụ tai tiếng về thảm sát thường dân ủng hộ Cộng Sản ở tỉnh Kiến Ḥa trước đó cũng vào dịp đầu năm 1969). Một căn cứ quân sự lớn lao được xây dựng mới ở phía tây thị xă Mỹ Tho, nằm dọc theo sông Tiền Giang và Kinh Xáng nối ra Quốc Lộ 4, đặt tên là Đồng Tâm. Liên kết Lực Lượng Xung Kích Sông Ng̣i (Riverine Assault Force) 117 của Hải Quân Hoa Kỳ và Lữ Đoàn 2 của Sư Đoàn 9 BB Hoa Kỳ, lực lượng này cơ động nhanh chóng trên hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt ở Miền Tây từ một căn cứ nổi tự hành to lớn, phối hợp hoạt động với các đơn vị của Quân Lực VNCH như Sư Đoàn 7 và 21 BB, Hải Quân Vùng 4 Sông Ng̣i và Lữ Đoàn B TQLC Việt Nam tăng phái từ BTTM Quân Lực VNCH. (Ghi chú tác giả: Thượng nghị sĩ John Kerry của tiểu bang Massachusetts, và cũng là đương kim ứng viên tổng thống năm 2004 của đảng Dân Chủ, từng chỉ huy duyên tốc đỉnh PCF hoạt động trong khu vực Năm Căn (Cà Mau) và An Thới (Phú Quốc) trước khi hồi hương và tham gia phong trào phản chiến). S

    au khi quân đội Mỹ triệt thoái, để thay thế LLĐN Thủy Bộ Mỹ, Quân Lực VNCH cho thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 bao gồm các giang đoàn xung phong của Hải Quân Vùng 4 Sông Ng̣i và Lữ Đoàn B TQLC do Đại Tá Tôn Thất Soạn chỉ huy, hoạt động cho đến cuối năm 1970, bao gồm chiến dịch vượt biên sang Cam Bốt trong lănh thổ Quân Khu 4. Tương tự như ở ba quân khu phía trên, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ cũng thành lập một loạt các trại dân sự chiến đău dọc theo biên giới Cam Bốt ở Quân Khu 4, từ Hà Tiên đến Đồng Tháp. Các căn cứ Tô Châu, Thạnh Trị, Tuyên Nhơn, Cái Cái, B́nh Thành Thôn, Chi Lăng, Ba Xoài và Vinh Gia sau đó đă được chuyển giao lại cho Quân Lực VNCH, h́nh thành tám tiểu đoàn BĐQ Biên Pḥng, dưới quyền chỉ huy của Biệt Khu 44.

    THẤT SƠN

    Khu vực Thất Sơn bao gồm bảy ngọn núi nhỏ với nhiều hang động nhô lên ngay biên giới Cam Bốt từ Tịnh Biên đến Tri Tôn, khống chế một khu vực đồng bằng rộng lớn của hai tỉnh Châu Đốc và Kiên Giang. Từ lâu Cộng Sản Bắc Việt đă xây dựng các căn cứ địa cùng kho tiếp vận trong các hang núi này. Sư Đoàn 1 CSBV từ khi di chuyển xuống đây từ khu vực Tây Nguyên vào cuối năm 1970 đă hoạt động trong khu vực này để yểm trợ cho hành lang tiếp tế và việc thu mua lương thực của CSBV từ khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt qua các hệ thống thủy lộ trong tỉnh Châu Đốc và Kiên Giang xuống khu vực căn cứ địa của Quân Khu 9 Cộng Sản trong khu vực U Minh và tỉnh Chương Thiện.

    Sau ngày ngưng bắn, Việt Nam Cộng Ḥa cho thực hiện hoạt động phong tỏa việc tiếp tế thu mua lúa gạo ở khu vực biên giới. Cùng lúc đó quân Cộng Sản Khmer Đỏ cũng ngăn chận việc thu mua lương thực của CSBV trên đất Cam Bốt khiến cộng quân lâm vào t́nh trạng khủng hoảng về lương thực. Con số cán binh Cộng Sản về hồi chánh tăng vọt. Ngày 24 tháng 8/1973 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xuống Cần Thơ để họp bàn về vấn đề kiểm soát và thu mua lúa gạo và phong tỏa nguồn lương thực tiếp tế cho Bắc quân. Đầu tháng Bảy năm 1973 Biệt Khu 44 mở cuộc hành quân tảo thanh khu vực Thất Sơn, loại bỏ mối đe dọa của Sư Đoàn 1 CSBV.

    Lực lượng tham chiến gồm có Liên Đoàn 4 và 7 BĐQ và Lữ Đoàn 4 Thiết Kỵ với tổng cộng 10 tiểu đoàn BĐQ và BĐQ-Biên Pḥng. Sư Đoàn 1 CSBV có Trung Đoàn 52 hoạt động ở phía bắc Hà Tiên trong khi Trung Đoàn 101D và Trung Đoàn 44 Đặc Công xâm nhập vào khu vực Núi Dài và núi Cô Tô trong tháng Chín, bắn hỏa tiển và súng cối vào các trung tâm dân cư. Đến đầu tháng 10 th́ do kiệt sức v́ tổn thất chiến trận và thiếu hụt lương thực trầm trọng, Quân Khu 9 Cộng Sản phải giải tán Sư Đoàn 1 CSBV. Trung Đoàn 52 và Trung Đoàn 44 Đặc Công được sát nhập qua Trung Đoàn 101D, lúc này chỉ c̣n 300 bộ đội để h́nh thành đơn vị mới cấp lữ đoàn. Đơn vị này sau đó phải rút sang Cam Bốt để dưỡng quân. Mối đe dọa cho khu vực biên giới từ Hà Tiên đến Châu Đốc đă bị loại bỏ.

    HỒNG NGỰ

    Đầu năm 1973 thủ đô Nam Vang (Phnom Penh) của chính phủ Lon Nol thân Mỹ bị quân Cộng Sản Khmer Đỏ phong tỏa khiến sông Tiền Giang trở thành đường tiếp tế huyết mạch chính về đạn dược, nhiên liệu và lương thực cho Nam Vang do phi trường Pochentong thường xuyên bị pháo kích. Các tàu biển và xà lan tiếp tế tập trung ở khu vực Vũng Tàu để được tàu kéo dần theo sông Tiền Giang lên đến Tân Châu (An Giang) trước khi vượt biên giới sang Cam Bốt. Thị trấn Hồng Ngự nằm dọc bờ sông Tiền Giang trong tỉnh Kiến Phong trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng cho thủy lộ tiếp tế này.

    Để đánh chiếm Hồng Ngự và cắt đứt thủy lộ tiếp tế cho Nam Vang, quân Bắc Việt sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn gồm Trung Đoàn 207 độc lập, Trung Đoàn 174 của Sư Đoàn 5 và Trung Đoàn 272 của Sư Đoàn 9, được Trung Đoàn 75 Pháo yểm trợ tấn công vào quận Hồng Ngự vào tháng Ba năm 1973. Mặc dầu các đơn vị ĐPQ/NQ của chi khu Hồng Ngự đă chống trả quyết liệt và các phi vụ oanh tạc chiến lược của pháo đài bay B-52 trên hành lang dọc theo sông Cửu Long lên đến Nam Vang góp phần gây thiệt hại nặng cho cộng quân, áp lực Bắc quân vẫn đè nặng lên quận Hồng Ngự.

    Giang Đoàn 26 Xung Phong ở Long Xuyên được lệnh tăng viện và đă yểm trợ hữu hiệu cho quân bạn cùng với Sư Đoàn 4 Không Quân cho đến tháng Tư khi Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB và một liên đoàn ĐPQ cơ động được Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh yểm trợ mở cuộc phản công, khai thông bờ đông của sông Tiền Giang từ Hồng Ngự lên đến biên giới Cam Bốt và gây thiệt hại nặng nề cho Bắc quân, bỏ lại 422 xác trong khi phía Việt Nam Cộng Ḥa có 94 chết, 743 bị thương và 36 mất tích. Tuy nhiên tổn thất về mặt dân sự khá cao với 80 chết và 300 ngôi nhà bị phá hủy do các cuộc pháo kích bằng hỏa tiển của cộng quân mà cao điểm là 123 hỏa tiển pháo vào thị xă Hồng Ngự trong tuần lễ thứ nh́ của tháng Tư (chi tiết của cuộc hành quân này đă được kể lại trong bài viết Những Ḍng Sông Cũ của Trần Đỗ Cẩm).

    ĐỒNG THÁP

    Sau thất bại ở trận đánh An Lộc, Mặt Trận B-2 Cộng Sản di chuyển Sư Đoàn 5 CSBV sang khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt trong tỉnh Svay Riêng để bổ sung quân số rồi di chuyển xuống khu vực Đồng Tháp, xâm nhập vào tỉnh Kiến Tường vào tháng Sáu năm 1972. Đồng Tháp là một vùng đồng lầy hoang vu rộng lớn, được vây quang bởi sông Vàm Cỏ Tây ở phía đông, sông Tiền Giang ở phía tây, biên giới Cam Bốt ở phía bắc và Quốc lộ 4 huyết mạch chạy qua tỉnh Định Tường ở phía nam. Khu vực này không có nhiều sông ng̣i nên hằng năm vào khoảng tháng Sáu nước sông Tiền Giang dâng cao đổ vào theo rạch Sở Hạ và rạch Cái Cái biến khu vực này thành một biển hồ ngập nước.

    Người ta có thể dùng ghe di chuyển từ biên giới Cam Bốt xuống tận thị xă Mỹ Tho. Khu vực sông Vàm Cỏ Tây có nhiều kinh rạch khiến sự lưu thông tương đối dễ dàng, dân cư sinh sống khá đông đúc bằng nghề ruộng rẩy. Khu vực trung tâm là vùng đồng lầy với nhiều cỏ lác không có bóng cây vào mùa khô và biến thành biển hồ mênh mông với nhiều đỉa, muổi, rắn. Chỉ có xuồng nhỏ là phương tiện di chuyển duy nhất. Khu vực giữa Hồng Ngự và Cao Lănh gần sông Tiền Giang có nhiều kinh rạch, quan trọng là kinh Đồng Tiến nối liền hai sông Tiền Giang và Vàm Cỏ Tây, và việc đi lại trên bộ cũng thuận tiện trong mùa khô.

    Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn 4, cho di chuyển nhanh chóng Sư Đoàn 7 BB vào khu vực Kiến Tường, đồng thời sử dụng hoạt động không yểm , gồm cả pháo đài bay B-52 để đánh phá các khu vực t́nh nghi tập kết của Bắc quân. Chiến sự diễn ra ác liệt ở khu vực Chân Tượng (Elephant’s Foot). Bắc quân sử dụng cả hỏa tiễn SA-7 (loại hỏa tiễn chống phi-cơ) lần đầu tiên ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dưới sự chỉ huy tài ba của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và dùng yếu tố thần tốc, Sư Đoàn 7 BB hoàn toàn làm chủ khu vực Chân Tượng vào cuối tháng Sáu.

    Tướng Nam sau đó đă để lại một trung đoàn để bảo vệ khu vực biên giới trong khi các thành phần c̣n lại rút về yểm trợ các đơn vị ĐPQ/NQ của tỉnh Định Tường đang phải đối phó với hai trung đoàn chủ lực Z-15 và ĐT-1 của Quân Khu 8 Cộng Sản đang gây rối trong khu vực Sầm Giang-Cai Lậy-Cái Bè. Để đối phó với áp lực gia tăng của Bắc quân trong tỉnh Định Tường, Quân Đoàn 4 tăng cường cho khu vực này Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB sau khi hoàn thành sứ mạng tăng cường cho Quân Khu 3 ở mặt trận An Lộc và hai liên đoàn BĐQ cùng Bộ Tư Lệnh BĐQ/Quân Khu 4.

    Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn 4 cũng được thành lập ở căn cứ Đồng Tâm do Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Tư Lệnh Phó Hành Quân của Quân Đoàn 4 chỉ huy. Đầu tháng Tám đơn vị BĐQ tiêu diệt các đơn vị Bắc quân trong khu vực Hậu Mỹ (Cái Bè). Quân đội VNCH đă thiết lập một số cứ điểm pḥng thủ dọc theo kinh Tháp Mười. Đầu tháng 11 các đơn vị của Sư Đoàn 7 BB đánh tan một tiểu đoàn của Trung Đoàn 207 thuộc Sư Đoàn 5 CSBV từ Cam Bốt xâm nhập vào tỉnh Kiến Phong, bắt sống 73 tù binh (con số tù binh đông nhất trong một trận đánh riêng biệt trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai), hầu hết đều c̣n rất trẻ, thiếu dinh dưỡng và cho biết bị cấp chỉ huy chạy trốn bỏ rơi khi đụng trận.

    Sau khi mối đe dọa ở khu vực biên giới từ Hà Tiên đến Đồng Tháp bị loại bỏ vào cuối năm 1973, Biệt Khu 44 được giải tán. Trách nhiệm các tỉnh Kiến Tường, Vĩnh Long và Vĩnh B́nh được chuyển giao cho Sư Đoàn 7 BB trong khi tỉnh Châu Đốc, Kiến Phong và bắc Kiên Giang thuộc về Sư Đoàn 9 BB. Cũng trong thời gian này, Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc thay thế Thiếu Tướng Trần Bá Di giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 9 BB. Cuối năm 1973 khu binh chủng Biệt động Quân được tái tổ chức để đối phó với t́nh h́nh và nhu cầu chiến trường mới, các đơn vị BĐQ và BĐQ-Biên Pḥng ở Quân Khu 4 bị giải tán, thuyên chuyển, sát nhập vào hệ thống tổ chức mới của binh chủng BĐQ ở ba quân khu phía bắc.

    Riêng Liên Đoàn 4 BĐQ nay thuộc quyền điểu động của bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. ĐỊNH TƯỜNG Định Tường là tỉnh quan trọng nhất, đông dân nhất và trù phú nhất của khu chiến thuật Tiền Giang với Quốc Lộ 4 huyết mạch chạy xuyên qua tỉnh nối liền các tỉnh c̣n lại của Miền Tây với tỉnh Long An của Quân Khu 3, nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm chính cho thủ đô Saigon cũng như phân phối đi cho cả nước. Ngoài sông Tiền Giang ở phía nam, tỉnh Định Tường cũng có một hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt nối liền với khu vực Đồng Tháp cũng như tỉnh Long An và khu vực Saigon-Gia Định, quan trọng là kinh Chợ Gạo. Ngoài vai tṛ quan trọng về kinh tế và quân sự (Căn Cứ Đồng Tâm gần tỉnh lỵ Mỹ Tho là Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 7 BB và căn cứ Hải Quân lớn sau khi Sư Đoàn 9 BB Mỹ triệt thoái), Định Tường c̣n là quê hương của phu nhân Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và gia đ́nh Bà Thiệu vẫn sinh sống ở tỉnh lỵ Mỹ Tho.


    Một đơn vị VNCH chuẩn bị cho cuộc hành quân thủy-bộ tại Cần Thơ
    (H̀NH ẢNH: Robert Payette)


    Đối với Cộng Sản Bắc Việt, Định Tường cũng có vai tṛ quan trọng chiến lược trong việc cắt đứt Quốc Lộ 4 để cô lập thủ đô Saigon về cả kinh tế lẫn quân sự cho cuộc tổng tấn công kết thúc cuộc chiến. Quân Khu 8 của Mặt Trận B-2 Cộng Sản có lúc có đến 6 trung đoàn chủ lực hoạt động trong tỉnh Định Tường từ khu vực căn cứ địa ở Trị Pháp trong khu vực Đồng Tháp và khu vực biên giới hai tỉnh Định Tường-G̣ Công. Đầu năm 1974 để chận đứng hoạt động xâm nhập vào khu vực Trị Pháp để chờ thời cơ tràn xuống uy hiếp Quốc Lộ 4 của Sư Đoàn 5 CSBV, Quân Đoàn 4 cho mở cuộc hành quân lớn vào khu vực này và sau đó phối hợp với Quân Đoàn 3 mở chiến dịch vượt biên sang Cam Bốt để tiêu diệt khu vực căn cứ địa của Sư Đoàn 5 CSBV nằm trong tỉnh Svay Riêng.

    Cuộc hành quân này sẽ được nói đến trong bài viết Từ Trị Pháp đến Svay Riêng. Như đă nói ở trên, vai tṛ quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long về kinh tế (chủ yếu là lương thực và thực phẩm) và nhân lực (công tác tuyển quân) cho nổ lực chiến tranh từ hai phía khiến khu vực này trở thành chiến trường chính cho các hoạt động dành dân và thu mua lương thực về phía CSBV cũng như b́nh định, kiểm soát lương thực và nhân lực về phía Việt Nam Cộng Ḥa.

    T̀NH H̀NH CHIẾN SỰ Ở QUÂN KHU 4 CUỐI NĂM 1974

    Từ sau cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Việt Nam Cộng Ḥa đă có nhiều thành công trong nổ lực b́nh định ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, kiểm soát phần lớn đất đai và hầu hết dân chúng sinh sống trong khu vực này cũng như loại bỏ hạ tầng cơ sở Cộng Sản hoạt động nằm vùng. Phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ c̣n tập trung hoạt động trong các khu vực căn cứ địa lâu đời trong khu vực U Minh, Đồng Tháp, Chương Thiện và Định Tường. Sau ngày ngưng bắn, với mối đe dọa dọc theo biên giới Cam Bốt bị loại bỏ, trọng tâm của Việt Nam Cộng Ḥa là loại bỏ hay cô lập các khu vực "da beo" này, đó là các khu vực được Bắc quân sử dụng làm bàn đạp tấn công vào các khu vực đông dân trù phú khi có thời cơ.

    Ở khu vực Đồng Tháp, Sư Đoàn 7 và 9 BB của Việt Nam Cộng Ḥa đă thành công lớn trong việc loại bỏ khu vực căn cứ địa chính của cộng quân ở Trị Pháp. Trong khu vực U Minh Thượng trong tỉnh Kiên Giang, quân đội cũng chiếm đóng khu vực đông dân G̣ Quao và Giồng Riềng do Bắc quân kiểm soát. Sau Nghị Quyết 21, Quân Khu 8 và 9 Cộng Sản bắt đầu gia tăng các hoạt động khũng bố, lấn chiếm các đồn bót ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Nh́n chung mực độ chiến trận tương đối thấp so với ba quân khu ở phía trên. Tuy nhiên do quân viện bị cắt giảm trầm trọng, đặc biệt là nhiên liệu và đạn dược, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 phải cho rút bỏ các căn cứ tiền đồn hẻo lánh.

    Hải Quân Vùng 4 Sông Ng̣i cũng cắt giảm 70% các hoạt động tuần tiểu trên sông và cho ngưng hoạt động gần 600 chiến đỉnh do thiếu cơ phận thay thế cũng như nhiên liệu và đạn dược để hoạt động. T́nh h́nh an ninh trên sông rạch và các khu vực hẻo lánh do đó bắt đầu suy giảm. Để chuẩn bị đánh lớn trong cuộc tổng tiến công trong hai năm 1975-76, Mặt Trận B-2 Cộng Sản bắt đầu cho sát nhập các đơn vị chủ lực hoạt động độc lập để xây dựng các sư đoàn và trung đoàn chủ lực nhẹ. Ở Quân Khu 9 (Hậu Giang), Sư Đoàn 4 CSBV được thành lập từ các trung đoàn độc lập D1, 18B và 95. Ở Quân Khu 8 (Tiền Giang), Sư Đoàn 8 CSBV được thành lập từ các trung đoàn độc lập 24, ĐT-1 và 320.

    Theo kế hoạch của Mặt Trận B-2, ở Miền Tây, trọng điểm của Cộng Sản là 3 tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh B́nh và Kiến Ḥa trong nổ lực chia cắt Quân Khu 4 để tiêu diệt, không cho các đơn vị Việt Nam Cộng Ḥa co lại cố thủ. Nếu kiểm soát được Vĩnh Long, Bắc quân sẽ cắt đứt Quốc lộ 4 và kiểm soát hai bến bắc chiến lược qua sông Tiền Giang và Hậu Giang, cô lập khu vực Hậu Giang. Bắc quân cũng mở rộng khu vực kiểm soát trong tỉnh Chương Thiện để có thể uy hiếp Cần Thơ, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 và phi trường Trà Nóc, căn cứ Không Quân chính ở đồng bằng sông Cửu Long và nơi đặt Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 4 Không Quân.

    Ở khu vực Tiền Giang, trọng tâm của Bắc quân là sử dụng khu vực căn cứ địa Đồng Tháp để áp sát vào Quốc Lộ 4 và cắt đứt trục lộ huyết mạch này, không cho Sư Đoàn 7 và 9 BB rút về tăng cường pḥng thủ Saigon. Đồng thời các trung đoàn độc lập của Quân Khu 8 trong tỉnh Định Tường cũng theo kinh Chợ Gạo tiến qua Long An để uy hiếp Saigon ở hướng đông nam từ khu vực Cần Đước, Cần Giuộc. Cùng lúc này các đơn vị chủ lực Bắc quân trong các tỉnh Vĩnh Long,Vĩnh B́nh và Kiến Ḥa cũng tiến về khu vực Cần Đước, Cần Giuột qua ngả G̣ Công để hợp lực uy hiếp Saigon từ hướng nam.

    Tháng 11 năm 1974 do áp lực của phong trào chống tham nhũng và ṭa đại sứ Mỹ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 bằng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB. Tương tự như vị chỉ huy tiền nhiệm ở cả hai chức vụ tư lệnh Sư Đoàn 7 BB và Quân Đoàn 4 là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tướng Nam có tiếng thanh liêm, sống đơn giản, đạm bạc, chăm lo nhiều cho binh sĩ dưới quyền và hết ḷng phục vụ cho đất nước và quân đội theo đúng qui định về tổ quốc, danh dự và trách nhiệm. Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù và đă từng nắm chức chỉ huy cấp tiểu đoàn, chiến đoàn và lữ đoàn Dù, tướng Nam cũng có nhiều kinh nghiệm chiến trường cũng như khả năng chỉ huy tham mưu. Dưới quyền chỉ huy tài ba của tướng Thanh và Nam, Sư Đoàn 7 BB dần dần trở thành sư đoàn thiện chiến nhất của Quân Lực VNCH ở Miền Tây từ sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân.

    ----------


    Subject: Vết xích chiến xa trên đất Kontum mùa Hè đỏ lửa 1972 Print to printer
    Author: comay  
     
    Lê Quang Vinh, Chi Đoàn 1/8

    Mưa giăng phủ trên nền trời Kontum, hạt mưa nhẹ như sương mù, những hạt mưa chỉ mang lại ướt át, lầy lội, những hạt mưa không gây chết chóc ai. Nhưng giữa những cơn mưa vô t́nh đó là một vùng Komtum khói lửa. Địch pháo như mưa, pháo theo mưa liên tục trút xuống thành phố và các vị trí của quân ta mà Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn là mục tiêu mưa pháo của địch. Trong những cơn mưa pháo đó, mỗi khi đạn đạo của pháo thu ngắn lại do tầm điều chỉnh của Bắc quân, là vị trí của Chi Đoàn bị ăn đạn. Lư do là vị trí pḥng thủ của thiết giáp chỉ cách Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn chưa tới 500 mét. Gia đ́nh kỵ binh các cấp đều ăn ngủ bên cạnh chiến xa, tất cả trong t́nh trạng sẳn sàng tác chiến, nhận lệnh, chỉ cần khoảng 2 phút là tất cả xích sắt chiến xa chuyển động. Cùng lúc, khả năng tác chiến của Chi Đoàn được phục hồi sau khi được trực thăng tiếp tế cơ phận và sửa chữa các chiến xa bị hư. Chi Đoàn có được 10 chiếc M41 trong tay sẳn sàng tham chiến.

    Giữa tháng 5/1972, SĐ23BB và các đơn vị thống thuộc đă bẽ gẵy ít nhất là 2 cuộc tấn công của Bắc quân, song áp lực địch vẫn c̣n đè nặng trên thị trấn Cao Nguyên này. Quốc lộ 14 lại bị chốt cứng tại đèo Chu Pao. Phương tiện tiếp tế duy nhứt cho mặt trận Kontum là thả dù, mà địa điểm thả là băi thả dù nằm phía Nam khu nghĩa địa. Nếu dù tiếp tế rơi bên này bờ suối th́ lọt vào tay bạn, nếu gió đưa dù qua bên kia bờ suối th́ địch có dịp ăn gạo xấy, thịt hộp của phe ta! Cả tháng trời chỉ có gạo xấy và thịt hộp, không có một miếng rau hay lương thực tươi, mà nếu từ trời bỗng rơi xuống mấy miếng thịt heo tươi anh em cũng chưa chắc dám ăn. Cái cảnh heo ăn thịt người làm anh em lợm giọng. Trước mắt chúng tôi, có mấy lần chứng kiến bầy heo đói sút chuồng chạy rong dọc đường Nguyễn Huệ, Phương Nghĩa phía Nam phi trường Kontum. Đàn heo giành nhau gậm xé một cái chân người, kéo lê trên vệ đường với chiếc giép râu c̣n dính chặc ở bàn chân, y như trong một phim ma kinh dị...

    Như mọi ngày, địch pháo ngày, pháo đêm, pháo trong cơn mưa, pháo khi trời nắng, pháo lúc sương mù... Nhưng đêm nay, địch bỗng ngưng pháo. Trực giác chiến trường cho biết có một cái ǵ bất thường, nghĩa là địch chuẩn bị giở tṛ. Các Chi Đội báo động và tăng cường canh gác. Trời Kontum tối đen như mực, màn đêm lại rải xuống những cơn mưa phùn tê buốt thịt da, héo hắt ḷng chinh nhân đang chong súng chờ giặc. Thời gian chầm chậm trôi như con kiến ḅ từ lổ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi, những con mắt chong vào đêm tối. Vừa qua khỏi nửa khuya, khắp nơi, hàng loạt tiếng nổ vang rền như phá tung màn đêm. Địch bắt đầu đợt tấn công mới. Qua hệ thống truyền tin, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn nhận các báo cáo:

    - Địch vào tới phi trường!

    - Địch tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44BB trong thành Dak - Pha

    - Địch tấn công hậu cứ Trung Đoàn 14 Kỵ Binh....

    Nằm trong tầm quan sát của Thiết Kỵ, trong cái tĩnh lặng của màn đêm lạnh lẽo giăng giăng mưa lạnh, chợt ḿn chiếu sáng và claymore đồng loạt nổ rực sáng về phía cánh Bravo, nơi băi thả dù tiếp tế những ngày vừa qua. Bravo khai hỏa. Đại bác và đại liên nổ rền một góc thành phố Kontum. Ḿn chiếu sáng và hỏa châu rọi rơ khu vực giao tranh, soi rơ bước chuyển quân của địch khi địch bị hỏa lực khủng khiếp của chiến xa bắn giạt về phía Nam khu trường học, nhưng cuộc di quân trốn đạn của định vẫn bị hỏa lực cánh Bravo bám chặt và bị dồn ngược lại để sau cùng lui về bờ suối, vừa rút vừa bắn trả bằng đại liên, B40, 41 và cả AT3 nhưng không gây thiệt hại cho các chiến xa cánh Bravo, v́ địch không nh́n ra vị trí các chiến xa. Hỏa lực địch dồn vào vách các căn nhà cháy phía sau lưng kháng tuyến của Bravo.

    Hỏa châu đă thay mặt trời. Tiếng súng ngưng, chiến trường im lặng. Mặt trời lại từ từ ḅ lên thế hỏa châu. Tôi phóng ống ḍm qua các vùng địch xâm nhập tấn công hồi đêm, xác địch nằm la liệt trên những g̣ đất, trên những bụi cây ngoài tuyến pḥng thủ. Định bụng là sẽ xin lệnh Sư Đoàn cho các đứa con bung ra truy kích và khai tác chiến quả, tôi chưa bốc máy th́ bất ngờ Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn gọi khẩn cấp:

    - Toàn bộ gia đ́nh Tài Lực rời vị trí, giao lại cho Bộ Binh. Chuẩn bị cải cách để giải tỏa áp lực địch trong thành Dak - Pha và tái chiếm lại phi trường Kontum!

    - Tài Lực nhận rơ!

    Lệnh ra, trong phút chốc, tất cả chiến xa lăn xích rời vị trí tiến ngược vào thành phố, rẽ trái tại đường Lê Lợi rồi đổi hướng Bắc để vào thành Dak-Pha. Tại khu nghĩa địa nhỏ trước cổng Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, địch ẩn nấp trong các g̣ mả và giao tranh ác liệt với Trinh Sát Sư Đoàn. Cách thành Dak - Pha khoảng 500m về phía Nam, có một khu vườn mít, tôi cho lệnh các chiến xa chui hết vào trong đó để ẩn nấp và quan sát mục tiêu.

    Cổng thành Dak - Pha sập đổ nát nhưng bức tường thành phía Nam vẫn đứng nguyên sừng sững, phân chia trong và ngoài. Tôi nh́n đăm đăm vào tháp nước nơi khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên nóc tháp tác xạ lên máy bay, tác xạ vào các cánh quân ta tiến vào trong thành. Không thể đi bằng cổng chính để làm mục tiêu cho địch tác xạ, tôi lệnh cho ba chiến xa dưới quyền:

    - Chuẩn bị khoan tường để tiến vào thành!

    - Nhận rơ!

    Ngay tức khắc, ba chiếc M41 như ba con cua sắt dương càng húc vào tường. Rầm! Rầm Rầm! Tường vừa sập, chiến xa tràn vào, tác xạ liên tục vô cổng chính và các căn nhà sập gần tháp nước, nơi địch bắn ra. Vừa lọt vào bờ thành là các chiến xa đầu chạm địch dữ dội. Toàn bộ Chi Đoàn vượt qua bức tường đổ. Địch có mặt khắp nơi, trong đống gạch vụn, sau bức vách đổ, sau nhưng ngôi nhà sụp, trong hầm, trong hố, sau gốc cây... Chỗ nào cũng có tiếng súng địch nhắm vào thiết giáp.

    Bên cạnh, cuộc ác chiến từ hồi đêm c̣n đang diễn ra tại Bội Chỉ Huy Trung Đoàn 44BB, nơi trước đó đă đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Nh́n chung, địa thế rất khó điều động chiến xa. Tôi quyết định nhanh, chia gia đ́nh ra từng phân đội, cứ hai chiến xa tiến theo một trục để yễm trợ và bảo vệ lẫn nhau. Trục tiến là đường đi giữa hai dăy nhà đổ nát, một chiếc chạy sát dăy bên phải, một chiếc chạy sát dăy bên trái, thận trọng tối đa khi tới ngả tư. Địch ẩn nấp trong những căn nhà đổ nát nên tất cả mọi loại vũ khí đều được đem ra sử dụng: Đại bác phóng vào hầm địch, đại liên 50 và 30 d́m cứng địch trong ṿng tử địa, lựu đạn được tung vào từng ô cửa sổ, từng góc nhà, từng lổ trống vách tường. Vũ khí chống chiến xa của địch bị vô hiệu v́ khoảng cách hai bên quá gần. Trong trận quần thảo cận chiến sinh tử này, thế bám trận của địch bị vỡ và địch tháo chạy về hướng Bắc, để lại vô số cán binh bị chết và bị thương, một tổn thất nặng nề. Các đơn vị bộ binh của Trung Đoàn 44 tức tốc tràn ra khỏi vị trí pḥng thủ, và một trận phản công ác liệt diễn ra khắp nơi trong thành Dak- Pha.

    Chi Đoàn đă hoàn thành nhiệm vụ. Trong trận giải tỏa thành Dak – Pha, Chi Đoàn bị hy sinh cũng không nhỏ, kể cả 5 sĩ quan và 3 chiến xa bị hư hại. Dù vết thương c̣n đang rướm máu, gia đ́nh Tài Lực lại nhận tiếp lệnh của thượng cấp: Rời Dak – Pha, giao lại cho Bộ Binh, di chuyển gấp để giải tỏa phi trường. Xích sắt chiến xa lại nghiến đường bụi đỏ mà ào ào tiến lên, lại lao vào "gió cát" mà chừng như nghe đâu đó âm thanh của một thứ "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" trong gió Kontum từ thành Dak – Pha thổi theo vết lăn của xích sắt...

    * * *

    Phi trường Kontum nằm về phía Đông của thành phố và ở vị trí Đông Nam thành Dak - Pha. Phi đạo chạy dài theo chiều Đông - Tây. Phía Nam phi đạo, gần cổng ra vào có vài căn nhà dành cho hành khách Air Việt Nam và An Ninh Phi Trường. Phía Bắc phi đạo có một số ụ để máy bay. Cuối phi đạo và dọc theo hàng rào phi trường là những lô cốt bảo vệ phi trường. Phi trường là một trong những mục tiêu quan yếu mà Bắc quân phải tấn chiếm.

    Tiếng khua động của xích sắt chiến xa không át được tiếng súng nổ vang mỗi lúc một rơ từ hướng hậu cứ Trung Đoàn 14 Kỵ Binh. Tôi mừng trong bụng là tiếng đại liên 50 vẫn c̣n nổ ṛn ră, v́ điều nay cho biết địch chưa chiếm được căn cứ Trung Đoàn, dù có nhiều đám cháy trong doanh trại. Từ các ụ máy bay cuối phi đạo, địch đặt đại liên bắn vào Trung Đoàn Thiết Giáp để yễm trợ cho bộ binh tấn công vào hậu cứ Thiết Giáp và khu vực Quân Tiếp Vụ gần thành Dak - Pha... Một vài lô cốt bị địch thổi sập, nhưng địch vẫn chưa lọt vào được.

    Địch chưa vào được là hậu cứ Thiết Giáp chưa mất, lực lượng quân ta vẫn c̣n. Tôi lệnh cho phân đội chiến xa đầu bọc về phía Nam của hậu cứ Thiết Giáp, sau đó chuyển sang hướng Đông rồi bố trí đợi lệnh. Tôi cần thời gian để quan sát, ước lượng ư đồ, khả năng và mục tiêu của địch... trước khi có kế hoạch tấn công. Ước lượng sai, hành động sai là tự sát. Địch đă ở trong vị thế đă dàn trận và tấn công. Tôi nghĩ đến cái câu của người xưa "biết ḿnh biết địch, trăm trận trăm thắng." Thắng bại ǵ th́ chưa biết, nhưng chỉ biết là yếu tố địch, khả năng địch, lực lượng địch, vũ khí địch... tôi chưa nắm hết, mà biết ḿnh th́ tôi biết khá rơ.

    Mặc dù được bổ sung trên 10 sĩ quan sau trận ác chiến trong nghĩa địa và sửa chữa, bổ sung chiến xa, nhưng khi giải tỏa thành Dak - Pha, gia đ́nh Tài Lực bị hy sinh nghiêm trọng một số sĩ quan ưu tú để bây giờ, đối chiến với Bắc quân đă chiếm phi trường và đang uy hiếp dữ dội hậu cứ Trung Đoàn 14 Kỵ Binh, Chi Đoàn chỉ c̣n lại hai sĩ quan là Chi Đoàn Trưởng và Thiếu úy Nguyễn Văn Tám. Các Chi Đội, Phân Đội chiến xa được trao quyền chỉ huy cho các Hạ Sĩ Quan Kỵ Binh kế quyền. Trong t́nh huống nguy khốn mà vết xích chiến xa chỉ có đường lăn tới, thầy tṛ chúng tôi đựa lưng nhau chiến đấu. Tôi gọi Tám:

    - Nhiệm vụ của cậu là ở lại với 2 M113 và bảo vệ cho 3 chiến xa bị hư. Tất cả chiến xa c̣n lại và anh em Hạ Sĩ Quan gia đ́nh Chi Đoàn do tôi điều động. Nhiệm vụ phải hoàn thành trong bất cứ t́nh huống nào! Cậu nhận rơ?

    - Rơ 5! Thẩm quyền!

    Giọng Tám chắc và quyết liệt. Tôi họp tham mưu bỏ túi với tất cả anh em c̣n lại mà trong đó tôi là Chi Đoàn trưởng, người sĩ quan duy nhất trong trận đánh sắp diễn ra. Tuy nhiên, tôi vô cùng tin tưởng những Hạ Sĩ Quan Thiết Kỵ can đảm và đầy kinh nghiệm của Chi Đoàn. Theo lệnh tôi, tất cả chiến xa c̣n lại của Chi Đoàn được chia làm 3 Phân Đội:

    - Phân đội 1 gồm 2 chiến xa, do Trung Sĩ Nhất Y – Đê – Niê ( người Thượng) chỉ huy.

    - Phân đội 2 gồm 2 chiến xa, do Thượng Sĩ Bảo chỉ huy.

    - Phân đội chỉ huy gồm 3 chiến xa do tôi, Chi Đoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy.

    Qua hệ thống âm thoại đặc biệt của gia đ́nh Tài Lực, tôi gọi, 2 Phân Đội và giao trách nhiệm:

    - 1 tấn công địch ở ụ máy bay đầu. Phân Đội Chỉ Huy trách nhiệm giữ cạnh sườn phải cho 1, sau khi 1 vào tới mục tiêu, Phân Đội Chỉ Huy tấn công mục tiêu 2 ở ụ máy bay thứ hai. 2 bảo vệ phía Nam, và Đông khi Phân Đội Chỉ Huy chiếm mục tiêu th́ 2 tức tốc tấn công mục tiêu 3 ở ụ máy bay thứ ba. Ngay sau đó, 1 rút ra bảo vệ cạnh sườn mặt Đông cho 2. Tất cả 1,2 nhận rơ?

    - 1, 2 nhận rơ 5! Thẩm quyền!

    Xích sắt chiến xa bắt đầu lăn trên kế hoạch, sau lưng là bộ binh SĐ23 tùng thiết theo sát chiến xa. Bắc quân đang chỉa tất cả các loại vũ khí vào hậu cứ Trung Đoàn Kỵ Binh, bất ngờ tiếng xích sắt vang sau lưng họ. Bắc quân ngỡ ngàng hoang mang trong t́nh huống này. Chỉ với 7 chiến xa mà Bắc quân đă chào đón vô cùng nồng nhiệt với pháo 130 ly, cối 120 ly, đại bác 75 ly không giật. Pháo địch bắn thành một hàng rào lửa cản chiến xa, lấy phi đạo làm ranh giới.

    Để tránh bị ăn pháo, tôi lệnh cho phân đội 1 tác xạ và lao thẳng vào mục tiêu với tốc độâ nhanh tối đa, trong lúc đó, phân đội chỉ huy trải lưới lửa vào cạnh sườn địch từ từ ụ máy bay 1 đến ụ máy bay 2. Chiến xa phân đội 1 đă gặp sự chống trả mănh liệt của địch với đại liên được đặt ngay trên bờ thành cùng với B40 và B41 tác xạ thẳng vào đội h́nh của phân đội, đồng thời pháo và đại bác 75 ly không giật của địch từ cuối phi đạo cũng đồng loạt trút đạn vào các chiến xa đang tấn công. Chiến xa vẫn tiến. Một trung đội bộ binh bám sát theo chiến xa. Mục tiêu địch càng lúc càng gần, và "Ầm! Ầm!" Đại lên địch trên bờ thành ụ máy bay số 1 bị đại bác chiến xa bắn tung, chiến xa ủi mục tiêu và bộ binh tràn ngập liền sau đó. Tiếng hô "xung phong" muốn át cả tiếng đạn nổ vang trời.

    Trận đánh càng lúc càng ác liệt và không kém phần hào hứng. Tinh thần chiến đấu tuyệt vời của Thiết Giáp và Bộ Binh SĐ23 thể hiện rơ ngay trên trận mạc máu lửa. Người trúng đạn nằm lại tại chỗ, c̣n khả năng bắn yễm trợ anh em cứ tiếp tục bắn. Người không bị đạn cứ tiếp tục xông vào phía trước. Chiến xa nào đứt xích th́ nằm lại, tiếp tục tác xạ theo khả năng c̣n lại của ḿnh, chiến xa nào c̣n nguyên cứ lăn xích xông tới. Cả 3 phân đội chiến xa và bộ binh quần thảo với địch đến xế chiều, từng ụ đại liên địch, từ ụ 75 ly không giật của địch... liên tục bị nổ tung và tràn ngập. Đến chiều cùng ngày, Bắc quân bị đẩy sát hàng rào phía Đông phi trường và sau đó bị quét sạch.

    Súng im tiếng trên toàn phi trường và hậu cứ Trung Đoàn Kỵ Binh. Khói từ những đám cháy c̣n phảng phất trong ánh chiều tà. Trận địa xơ xác, tiêu điều, những vị trí súng bị phá hủy, những thây người, những vết xích ngang dọc. Tôi cho chiến xa tiếp cận hàng rào phi trường về mặt Đông, số tử thương của địch bỏ lại nơi này có hơn một tiểu đoàn.

    Màn đêm kép sụp đến che kín dần những tang thương đổ nát của chiến trường. Công tác thu dọn chiến trường và tản thương xong, gia đ́nh Tài Lực di chuyển về vị trí được chỉ định, và mắt vẫn chong vào bóng đêm vất vưởng âm hồn tử sỉ hai bên.

    Lê Quang Vinh

    Phụ chú liên hệ:

    - Ngày 3/5/1972, TT Việt Nam Cộng Ḥa bay lên Kontum, đáp trực thăng đến mặt trận thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ. Mùi thuốc súng vẫn chưa tan trong thành phố. Cùng ngày, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội đă gắn một sao lên cổ áo vị Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Lư Ṭng Bá, đồng thời cũng là tư lệnh chiến trường Kontum 1972. Cùng lúc, có quyết định thăng một cấp cho hầu hết các chiến binh tham dự mặt trận.

    Chi Đoàn Thiết Kỵ 1/8 đă là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp cho chiến thắng giải tỏa và cứu Kontum, từ ngày nhổ chốt Chu Pao đến lúc chiếm lại phi trường Kontum. Chi Đoàn đă hy sinh cho chiến thắng này:

    - 68 kỵ binh mũ đen, trong đó có 18 sĩ quan.
    - Trên 300 bị thương
    - 2 chiến xa M41 bị phá hủy.
    - 10 chiến xa bị hư hại nặng.

    Đổi lại về phía địch:

    - Trên 10 chiến xa T54 bị bắn cháy.
    - Bắt sống một T54 c̣n nguyên vẹn.
    - Hơn một ngàn chết bỏ xác tại trận địa, số tử thương và bị thương được đồng đội mang theo không rơ.

    Chi Đoàn, với những tổn thất nặng nề như trên nhưng lúc nào cũng c̣n khả năng tác chiến và hoàn thành nhiệm vụ trong khói lửa, một phần nhờ ḷng ưu ái của Đại tá Nguyễn Xuân Hường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 Kỵ Binh Thiết Giáp. Gần như Đại tá Hường đă vét cạn nhân lực của hai Chi Đoàn 2/8 và 3/8 để bổ sung cho 1/8 sau những trận giao tranh nặng nề. Điều này được thể hiện rơ trong trận giải tỏa phi trường Kontum và hậu cứ Trung Đoàn 14 Kỵ Binh. Khi trực thăng c̣n đang đáp xuống sân vận động để di tản thương binh cũng là lúc những sĩ quan và binh sĩ Kỵ Binh Thiết Giáp đổ xuống từ trực thăng để tăng cường, bổ sung cho gia đ́nh 1/8 kịp lúc cho những trận đánh kế tiếp. Chính v́ thế, toàn thể Kỵ Binh Thiết Giáp, nhất là Chi Đoàn 1/8, đă rất kính mến người anh cả Kỵ Binh Đại tá Nguyễn Xuân Hường.

    Sau khi Kontum được giải tỏa, Chi Đoàn 1/8 vẫn lại là đơn vị Thiết Kỵ duy nhất ở lại Kontum chứ không được thay thế để dưỡng quân, để rồi vài tháng sau đó, 1/8 Thiết kỵ lại cùng Bộ Binh SĐ23 lại quần thảo với Bắc quân trong một trận dạ chiến ác liệt để tái chiếm căn cứ hỏa lực Non Nước gần Ngô Trang nằm về hướng Tây Bắc Kontum, đánh bật 2 tiểu đoàn địch ra khỏi vị trí đóng chốt, cứu nguy cho Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53 và toán cố vấn Mỹ.

    Khi căn cứ hỏa lực Non Nước lọt lại vào tay ta, Trung tá cố vấn trưởng Trung Đoàn đă nói trước mọi người:

    - Đây là đơn vị chiến xa tuyệt vời mà lần đầu tiên trong đời binh nghiệp tôi mới chứng kiến trong trận đánh!

    Cũng sau đó, chính ông đă đề nghị cấp huy chương "anh dũng bội tinh/silver star " của Hoa Kỳ cho Chi Đoàn Truởng 1/8 Thiết Kỵ Lê Quang Vinh.

    Thai Duong 530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh-Pleiku Air Base, Vietnam