Hình 1: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh trong cuộc triển lãm ảnh nghệ
thuật của ông cùng hai nhiếp ảnh gia Nguyễn Khải và Phạm Hiếu
Những
ai đã từng lớn lên thời chiến tranh chắc không thể không biết nhiếp ảnh
gia Nguyễn Ngọc Hạnh với những bức hình nói về cuộc chiến tại
Việt Nam đầy tính nhân bản.
Trong những năm phục vụ trong quân đội
Việt Nam Cộng Hòa, có một biến cố khiến ông trở thành một nhiếp ảnh
gia nổi tiếng sau này. Trong một cuộc giao tranh ở Bồng Sơn, Quảng Nam, ông
từ chối ra lệnh cho binh sĩ ném lựu đạn xuống hầm để tiêu diệt
Việt Cộng. Lý do rất đơn giản, Việt Cộng đã bắt cả gia đình
người dân xuống hầm chung với chúng, giết chúng là giết thêm 5, 6 thường
dân vô tội. “Ðành rằng là một quân nhân phải tuyệt đối phục tùng mệnh
lệnh, nhưng lệnh của trái tim tôi không cho phép tôi làm chuyện đó nữa sau khi đã
chứng kiến mười mấy căn hầm như vậy. Tôi xin chấp nhận hình
phạt.”
Trở về Bộ Tổng Tham Mưu nhận hình phạt thì được
Tướng Thanh, Phòng I nhìn ra khả năng nhiếp ảnh của ông do ông đã có 4 năm
học bên Pháp nên cho phép ông phục chức và điều ra mặt trận làm phóng viên chiến
trường.
Thế là ông đi từ chiến trường này đến chiến
trường kia. Những bức hình của ông đã giới thiệu cho thế giới biết
cuộc chiến tranh Việt Nam như thế nào, và người lính Việt Nam Cộng Hòa
nhân bản ra sao. Trong thời gian này, ông viết cuốn sánh “Việt Nam Khói Lửa”
và xuất bản được một cuốn sách hình, lưu lại những hình ảnh
sống động của cuộc chiến.
Những bức hình ông chụp được
mọi người ngưỡng mộ không phải là những hình thời sự. Ông chỉ
là người tái tạo lại những câu chuyện đã xảy ra qua góc nhìn của một
người lính cầm máy hình. Tất cả hầu như đều được dàn dựng
công phu, tỉ mỉ để nói lên sự thật, mà theo ông “Lịch sử phải được
dựng lại với tất cả lòng kính trọng.”
Trong khuôn khổ trang Người
Việt Trẻ, chúng tôi giới thiệu đôi nét về ông và một số tác phẩm với
từng hoàn cảnh ra đời của nó, qua lời kể của nhiếp ảnh gia Nguyễn
Ngọc Hạnh.
Hình 2: Dựng cờ
“Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 tại
Huế, Việt Cộng đã chiếm được Ðại Nội, họ chuẩn bị
sẵn một lá cờ rất lớn treo lên cột cờ tại đây. Chúng ta phản kích
và lấy lại được khu đất này. Trong khi vẫn còn những ụ súng phản
kháng của Việt Cộng thì một trung sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa trèo lên cột
cờ, xé tan lá cờ Việt Cộng và treo lá cờ của mình lên. Khi vừa leo xuống đến
khoang đứng trên cùng thì anh bị Việt Cộng hạ sát, té rớt xuống đất.
Lúc đó tôi còn bên kia sông Hương, cầu Tràng Tiền đã bị gãy, và tôi phải tìm cách
vượt qua sông để vào Ðại Nội. Sau 45 phút dưới làn đạn địch,
cuối cùng tôi cũng đến được nơi đó. Tôi được thuật lại
rằng: khi người trung sĩ hy sinh, bà vợ của ông ta từ trại gia binh gần
đó chạy ra, khóc lóc thảm thiết. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Hắc
Báo 81 bọc lá cờ Việt Nam Cộng Hòa cho người trung sĩ và chuyển anh ta về
tuyến sau. Sau đó Tiểu Ðoàn 81 Hắc Báo truy lùng tàn quân Việt Cộng và dẹp sạch
số còn lại ẩn nấp gần đó. Hôm sau tôi quay lại đúng lúc đơn vị
Hắc Báo chuẩn bị rút khỏi Ðại Nội, tôi xin thiếu tá tiểu đoàn trưởng
cho chụp một bức hình ghi nhận công lao của đơn vị. Ðược sự
đồng ý của ông, tôi mới sắp xếp chỗ đứng cho các đơn vị
chung quanh cột cờ. Sau đó tôi đề nghị mọi người giơ súng reo hò ‘Việt
Nam Cộng Hòa Vạn Tuế! Việt Nam Cộng Hòa Vạn Tuế!... ’ ’ ’ Bức
hình được chụp trong hoàn cảnh đó.”
Hình 3: Tấn công
“Tại mặt trận Bồng Sơn, Quảng Nam khoảng
năm 1965-1966, tôi dẫn một đại đội +, tức là khoảng gần 100 binh
sĩ chiếm cứ một ngọn đồi trong vùng. Việt Cộng cũng chiếm một
ngọn đồi khác, cao hơn gần đó. Ban ngày hai bên đều thấy rõ những
hoạt động của nhau như di chuyển, đào hầm hố... Tôi nhận định
là tụi nó sẽ tấn công chúng tôi vào ban đêm nên cho anh em chuẩn bị hầm hố
cẩn thận và yêu cầu hậu cứ tiếp tế lựu đạn. Hôm sau, trời
vừa nhá nhem tối thì họ tấn công. Tôi lệnh cho binh sĩ dùng lựu đạn để
đẩy lui bọn chúng, súng chỉ được dùng trong lúc đánh xáp lá cà. Ðánh bằng
lựu đạn rất hiệu quả nhưng cũng rất nguy hiểm vì chúng tôi phải
ước lượng được từ nơi đóng quân đến chỗ Việt
Cộng la xung phong để sau khi rút chốt phải đếm giây trước khi ném. Nếu
đếm sai, nhất là bị chậm, sẽ dẫn đến tử thương. Tôi vừa
chỉ huy vừa quan sát cách rút chốt lựu đạn của binh sĩ, và thấy được
những khuôn mặt căng thẳng và quyết tâm của binh sĩ. Năm giờ sáng hôm sau
thì Việt Cộng rút, để lại một số xác. Hôm đó tôi kêu một anh lính người
gốc Miên, mua cho anh một xị rượu cho anh uống, rồi dẫn anh ta xuống
chân đồi cùng 2 két lựu đạn bảo anh ta quăng thật. Thế giới biết
đến tôi nhiều cũng qua tấm hình này.”
Hình 4: Tiếc thương
“Khoảng năm 1965, Việt Cộng tấn công vào
một đồn lính ở Củ Chi, ngoại thành Sài Gòn. Chúng tôi đến giải vây. Khi
Việt Cộng rút đi, họ để lại 6 xác chết không đầu của những
người Nhân Dân Tự Vệ. Chúng tôi đến chỗ để xác thì thấy một
cô gái khóc lóc thảm thương, đang lần mò tìm xác chồng. Tôi giúp cô tìm thẻ bài để
nhận diện, sau đó cho cuốn xác tất cả lại đem về. Hôm sau tôi đến
nhà cô gái mong có thể chụp một tấm hình của cô nhưng cô vẫn khóc lóc thảm
thương quá nên không thực hiện được. Khi về dưỡng quân ở rừng
cao su Ngã Ba Ông Tạ, tôi nhờ con gái tôi, lúc đó 11 tuổi tìm giúp một người bạn
gái nào đó có một hoàn cảnh tương tự như cô gái ở Củ Chi để dựng
tấm hình ‘Tiếc thương’. Cô Tâm là người con gái mà con tôi tìm được.
Hiện nay cô đang sống tại thành phố Oklahoma. Lúc đó cô mới 19 tuổi, ý trung
nhân của cô trong một chuyến bay nhảy toán ngoài Bắc bị Bắc Việt bắn
rơi máy bay và bị bắt làm tù binh. Tôi đến gặp gia đình cô và xin phép được
mời cô đi chụp hình với tôi. Gia đình cô đồng ý. Chỗ chụp hình là một
quán bia ở xa lộ Biên Hòa. Tôi nhờ một anh bạn biết thổi sáo và nói anh ta ngồi
phòng bên cạnh chơi những bản nhạc chiêu hồn như chương trình đài Saigon.
Con tôi cũng ở đó, đọc những lá thư của ý trung nhân cô Tâm viết cho cô.
Tôi chải tóc cho cô như trong hình, đưa tấm thẻ bài cho cô cầm, tấm thẻ
bài này tôi mua chợ đen, một tấm thẻ bài được làm từ thời Pháp. Trong
không khí u buồn, và bị tác động bởi tiếng sáo não lòng cùng với những lời
lẽ trong bức thư của ý trung nhân, cô ta khóc nấc lên. Những giọt nước
mắt lăn trên má, rớt xuống tay là những giọt nước mắt thật. Hai
giọt nước mắt trên tấm thẻ bài là do tôi tạo ra. Chụp được
6 tấm thì cô tỉnh lại, không khóc nữa. Ðây là tấm hình lúc cao điểm nhất khi
cô ấy nấc lên.”
Hình 5: Hạnh phúc trong tầm tay
“Năm 1973, tôi nghe rằng ở Bạc Liêu
có một người như trong hình, tức là bị cụt tay chân nên đến đó nhờ
ông tỉnh trưởng dẫn tới nhà chụp hình. Ðây là một anh Nhân Dân Tự Vệ
trong thôn có nhiệm vụ mở đường mỗi sáng. Một buổi sáng anh xâm được
quả mìn Việt Cộng gài đêm trước, sắp đưa được nó lên thì
quả mìn phát nổ. Anh bị cụt một tay và một chân trái. Tới nhà anh, một ngôi
nhà lá đơn sơ, chỉ có hai cha con ở nhà, người vợ đi bán buôn ở chợ.
Anh nấu cơm, cho gà ăn, giặt quần áo, và làm tất cả mọi việc có thể
làm để giúp vợ. Ðến khi anh ru con anh ngủ thì tôi biết rằng mình đã gặp
một tuyệt tác phẩm. Anh quên hẳn mình là người tàn tật đùa với đứa
con trai nằm trên võng, thằng bé cũng đùa với bố một cách vô tư và hạnh
phúc.”
Hình 6: Mầm măng non
“Ðây là hai đứa con tôi. Hương và Tuấn. Và hậu
cảnh là một đồn canh tại Bình Chánh trước năm 1968. Ðây là một đồn
canh rất mong manh, trong đó có 15 anh Nhân Dân Tự Vệ bảo vệ. Một đêm, khoảng
một đại đội Việt Cộng tràn vào và 9 anh đã hy sinh trong khi chiến đấu.
Trận chiến tuy nhỏ nhưng ác liệt vì các anh đã hết sức chống lại
sự xâm nhập của Việt Cộng dù chỉ được trang bị vũ khí không
bằng địch. Khi chúng tôi đến giải vây thì đồn canh tan hoang vì đạn
pháo, xác các anh nằm la liệt trong đồn. Tôi cho binh sĩ mai táng cho các anh, dọn dẹp
đồn canh cho sạch. Chúng tôi đóng quân lại và chuẩn bị mọi thứ ‘đón
tiếp’ nếu địch quay lại và lên kế hoạch hành quân tìm địch. Hai
tháng sau, nhớ con quá nên tôi cho đem hai đứa con tôi lên đơn vị chơi. Mua cho
hai cháu 2 bộ quần áo mới màu đỏ và vàng để tạo màu lá cờ và để
cho hai cháu chơi trong đồn canh đó. Tôi muốn nói với mọi người rằng
những mầm măng non của đất nước sẽ lớn lên trên đống hoang
tàn của chiến tranh nhờ sự hy sinh của người lính Việt Nam Cộng Hòa.”
Hình 7: Vá cờ
“Trong trận chiếm lại Ðại Nội, Huế năm 1968,
tôi có gặp vợ người trung sĩ tử trận. Tôi ghé nhà chị mong chụp được
một tấm hình chân dung người góa phụ nhưng không được. Trước
nỗi tiếc thương người chồng vừa mất, tôi không muốn chị phải
đau thêm. Thế rồi khi qua Mỹ tôi lại tình cờ gặp lại chị trong khu chợ
Lion ở San Jose, ý định chụp tấm hình vá cờ trở lại, nhưng chị đã
già đi nhiều, không thích hợp và tôi đành phải đi tìm người khác.”
“Tôi
quen với anh chị Hải Bằng, chị bằng lòng làm người mẫu cho tôi chụp
bức hình ‘Vá cờ’ này. Tôi mua một cái nón sắt ở chợ trời, mượn
cây súng trường của anh bạn Bùi Ðức Lạc là cả một chuyện khó khăn.
Tôi dùng hai thứ đó làm hậu cảnh. Lá cờ được tôi đốt lỗ chỗ
để chị ấy vá. Chị cứ ngồi vá cờ và tôi cứ chụp. Ðến động
tác như trong hình thì tôi nói chị giữ nguyên động tác đó, tôi mở hé cửa sổ
chỉ cho một phần ánh sáng rọi vào lá cờ, rọi vào nón sắt. Tuyệt vời.
Bức hình chỉ có một ý nghĩa duy nhất: Chúng ta hãy vá lại những mảnh đời,
những mảnh tình, những đơn vị chia rẽ, vá lại tình đoàn kết.”
Hình 8: Hai cha con
Gia đình anh bạn trong hình ở San Jose. Tôi đến nhà một
cô học trò và gặp anh đang sửa chữa nhà cho chị ấy. Nhà anh cũng ở cạnh
và con anh, đứa bé trong hình hay chạy qua trò chuyện với anh. Tôi thấy hình ảnh
hai cha con đẹp quá nên mới đề nghị được chụp hình hai cha con. Chủ
đề tôi muốn là một buổi gặp gỡ hai cha con khi người cha từ chiến
trận trở về. Tôi nói với anh hãy cố tạo những câu chuyện kể cho cậu
bé nghe và để cho bé đặt những câu hỏi. Hai cha con thật tự nhiên trò chuyện,
thằng bé đặt nhiều câu hỏi cho cha mình và cười thật tươi. Một
tấm hình thật đẹp, thật yên bình.
Hình 9: Chân dung người lính
Tôi có một người bạn học tên Tuấn
học chung tại trường Tarbert, Sài Gòn. Chúng tôi cùng đi lính, và sau này về chung một
đơn vị. Tôi là tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, anh là đại đội
trưởng Ðại Ðội 2. Hôm đụng trận ở Ðất Cuốc, Củ Chi, đơn
vị anh đổ bộ xuống cánh đồng trống thì bị phục, ngay đợt
đầu tiên chúng tôi đã bị thương vong. Từ trong những bó rơm lớn, Việt
Cộng núp trong đó bắn ra đội hình chúng tôi. Trong trận đánh này, anh Tuấn hy
sinh. Sau này tôi hay mơ thấy anh về đứng bên giường tôi với đôi mắt
như trong bức hình này. Anh cứ đứng nhìn tôi một cách buồn thảm rồi biến
mất. Khi qua Mỹ chỉ được 2, 3 ngày thôi anh lại về với tôi trong giấc
mơ, cũng nhìn tôi với đôi mắt như thế này. Giật mình tỉnh dậy, tôi
nghĩ là anh theo tôi qua tới đây. Cố gắng ngủ lại, tôi lại thấy anh, anh
như muốn nói với tôi rằng ‘Bây giờ niên trưởng tới đất Mỹ
bình an, nhưng đừng quên những phút tác chiến bên nhau. Xin đừng quên những ngày
gian khổ.’ Tôi cầu nguyện cho anh và hứa với lòng sẽ cầu nguyện cho
anh suốt đời, và có ý định tìm người mẫu để tái tạo lại
cái nhìn của anh Tuấn. Nhờ ơn trên, tôi gặp được anh Dư trong một
buổi sinh hoạt Gia Ðình Mũ Ðỏ. Tôi kể cho anh Dư nghe câu chuyện của anh Tuấn,
anh đồng ý giúp tôi. Lúc chụp hình tôi mở cho anh nghe những bài nhạc hành quân oai hùng.
Khi bài nhạc đang ở cao trào, tôi xin anh đứng lên và chào cờ theo nghi lễ quân cách.
Anh đứng lên chào và nhìn thẳng vào lá cờ tôi treo sau máy hình. Tấm hình được
thực hiện như thế, còn kỹ thuật rửa hình là phần của tôi để
tạo được tác phẩm này. Bức hình đã tái tạo lại được cái
nhìn của một chiến sĩ đã hy sinh, như đang nói giùm những người đã
nằm xuống rằng ‘Em thì đã đành rồi, người trưởng thượng
thì vẫn còn sống. Thế thì nhiệm vụ của các anh chưa hết đâu, các anh phải
tiếp tục phục vụ đất nước.’”
Trích Tiếng Nói Tự
Do Dân Chủ
Người yêu ảnh nghệ thuật có thể
liên lạc với nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh tại địa chỉ 1295
McLaughlin Ave. # 141, San Jose, California 95122, phone 408-287-3249