Lá Cờ Thấm Máu Phục Quốc Quân Triều Giang
Lá cờ thấm máu phục quốc quân
Thư viện/Bảo
tàng viện Lyndon Johnson đă nhận được một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà
do gia đ́nh ông Lộc Nguyễn, một người Mỹ gốc Việt đang sinh sống
tại Austin gửi tặng. Lá cờ vàng 3 sọc đỏ được làm bằng loại
vải mềm. có màu vàng lạt hơn những lá cờ khác v́ thời gian. Trên lá cờ c̣n
có những vệt máu thâm đen.
Theo ông Lộc Nguyễn, th́ đây là cờ được
treo trên đỉnh của một tiền đồn tại tỉnh Đà Nẵng cho đến
giờ cuối cùng trước khi tiền đồn bị thất thủ vào tháng 3 năm
1975. V́ lư do bảo mật để tránh sự nguy hiểm cho một số người liên
hệ c̣n đang sống tại VN, ông Lộc không thể nói rơ hơn về địa điểm
của tiền đồn cũng như tên tuổi của những người liên hệ.
Cha ông, vị sĩ quan chỉ huy tiền đồn đă không chịu đầu hàng. Ông và
một số binh sĩ của ông đă trốn vào rừng để tiếp tục chiến
đấu. Ông đă mang lá cờ này theo toán phục quốc quân vào trong rừng. Từ tháng
3 năm 1975 cho tới năm 1978, lá cờ này đă theo toán phục quốc quân ẩn sâu trong
rừng. Khi liên hệ được với người liên lạc là mẹ ông Lộc, cha
ông đă gửi gấm cho mẹ ông lá cờ với lời nhắn nhủ người con
trai duy nhất trong gia đ́nh rằng; ông Lộc hăy ǵn giữ lá cờ máu này và hăy t́m mọi
cách để đưa lá cờ ra khỏi VN để nói cho toàn thế giới biết về
sự đau thương của VN dưới sự cai trị hà khắc của CS, và sự
chiến đấu quyết không đầu hàng của những chiến sĩ phục quốc
quân.
Do đó, từ năm 1978 tới năm 1994, lá cờ đă được giầu
dưới giường của mẹ ông Lộc. Trước khi chết, mẹ của ông
Lộc đă cho con trai biết về lai lịch lá cờ và cái chết của người
cha. Cũng theo lời trăn trối của mẹ ông Lộc, cha ông cho bà biết vết máu
trên lá cờ là của một trong những chiến sĩ phục quốc quân. Bà không hỏi
rơ là vết máu cuả chiến sĩ phục quốc từ vết thương trong một
trận giao tranh hay là do bị thương trong lúc leo lên cột cờ để hạ lá cờ
xuống trước khi đem vào rừng cùng với toán quân.
Cái chết tức tưởi
của một phục quốc quân với lời trăn trối: Dùng lá cờ để
nới lên chính nghiă của Nam VN
Toán quân sau đó đă bị theo dơi và bị bắt vào
năm 1982. Cha ông Lộc đă vào tù cùng với các chiến hữu của ông, nhưng lá cờ
có thấm máu của người chiến sĩ phục quốc đă được con trai
ông vâng lời cha, trong một chuyến về thăm VN, bất chấp nguy hiểm, ông Lộc
đă bí mật chuyển sang Mỹ vào năm 1998.
Mẹ ông Lộc không được
biết những ǵ xảy ra sau đó cho những chiến sĩ phục quốc quân, kể
cả ngày chết cuả chồng. Ông Lộc cho biết từ kh́ cha ông bị bắt vào năm
1982, mẹ ông hàng tháng đi thăm nuôi, nhưng không bao giờ đưọc gặp chồng.
Mỗi khi đến trại tù, những người cai quản trại tù bảo bà đưa
đồ tiếp tế cho họ để họ chuyển cho chồng bà và bà ra về. Bà
đă đi thăm nuôi chồng trong tăm tối như thế trong suốt 7 năm trời.
Măi đến năm 1989, một người quen cùng trong trại tù với chồng bà đă
nhắn cho bà biết chồng bà đă bị đánh đập và bị hành hạ cho tới
chết trong tù đă nhiều năm qua. Lúc đó, người chỉ huy của toán phục
quốc quân này đang ở tuổi trên 60 và ông đă chiến đấu trên 30 năm cho lư
tưởng tự do, dân chủ của đất nước, dân tộc.
Năm 2004,
qua sự giới thiệu của người bạn là một cựu chiến binh Mỹ,
ông Patrick Reily, ông Lộc đă tặng lá cờ cho Thư viện Lyndon Johnson với ước
nguyện hoàn thành được lời trăn trối cuối cùng của người cha.
Đó là dùng lá cờ để nói cho cả thế giói biết đến sự hà khắc
của chế độ CSVN và sự chiến đầu anh dũng của quân đội
Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lộc Nguyễn hiện lập gia đ́nh với bà Thu Minh Nguyễn
và có 3 người con gái và một con trai. Ông bà đă xin phép cho các con nghỉ học một
buổi để các cháu có thể được nh́n lá cờ mà ông bà nội cuả các cháu
đă dùng mạng sống cuả họ để ǵn giữ nó.
Hiện Viện Bảo
tàng Lyndon Johnson chưa có chưong tŕnh trưng bày lá cờ này trước công chúng, nhưng
nếu có khách thăm viếng yêu cầu, thư viện sẽ đưa ra để cho khách
được chiêm ngưỡng. Để tiện việc sắp xếp, xin gọi điện
thoại trước cho quản thủ thư viện đang có trách nhiệm ǵn giữ lá
cờ, ông Michael Mc. Donald, điện thoại số: (512) 721-0199. Hoặc Email về địa
chi: michael.macdonald@nara.gov.
|
Thời Chinh Chiến / 34 Năm Nh́n Lại - Tháng Tư
Đen 1975 / 26 Tháng Tư 2009 Monday, March 23, 2009 NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI
LỬA BINH
Trong cuộc chiến tranh bảo quốc chống ngăn cơn sóng
đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân tay sai tiền kích của
chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt cộng miền Nam, khuôn mặt
của những người vợ lính dường như đă rất mờ nhạt đằng
sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng chiến tranh càng nặng độ th́ h́nh ảnh
những người chị vô danh ấy đă dần hiện rơ trong một ánh sáng diệu
kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật sâu xuống để tôn vinh và ngợi
ca. Đó là những người lính không có vũ khí, không số quân, không tiền lương, không
cả lương thực hành quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng
nhất trong những hoàn cảnh nghiệt ngă thắt ngặt nhất, mà đă góp phần
đem chiến thắng quyết định trên chiến trường. Đó là NHỮNG NGƯỜI
VỢ LÍNH, những người chị cao cả mà đă cùng chồng dấn ḿnh trong cơn
băo lửa của chiến tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước
cả các anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được.
Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ phủ trên chiếc quan tài được ghép thành
từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương Anh Dũng Bội
Tinh Với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy điệu ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con
của các anh cùng sống chui rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới
những những cái hố nhỏ ngập đầy nước. Những người lính
nghèo nàn, rách rưới và tội nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh
xé thịt của đêm. Ăn uống th́ đạm bạc đến không có ǵ đạm
bạc hơn được nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ
kho trong chất nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau
muống ruộng hay rau đắng xơ xác, mà có thể t́m thấy mọc đầy khắp
những vũng nước đọng trên những cánh dồng lầy. Cả gia đ́nh
người lính Địa Phương Quân hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn
sơ đó chấp nhận sự thua thiệt của ḿnh. Không than thở, không ta thán và vui
ḷng với niềm hạnh phúc mong manh của ḿnh. Một năm 365 ngày, mười năm,
hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy
ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên
giấc là ǵ. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác
vọng ́ ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn
thức nguyện cầu cho anh được b́nh yên, để anh có một ngày được
về với chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm
hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu
cơ cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, th́ chị cũng cơ
cực và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ĐẤT G̉ CÔNG
Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng
cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện h́nh ảnh và đức
tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm
đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến
chuyện gia đ́nh, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đă thấy dẫy đầy ngoài những ṿng rào kẽm gai,
th́ những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn
luyện ở quân trường ấy đă chiến đấu như bất cứ người
lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết
sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn
ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những
thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc
poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người
chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Đ́nh này th́ ít nhất cũng
có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.
Đêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống
tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền
Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt
cộng đă tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật
lớn. Đồn Giồng Đ́nh thuộc tỉnh G̣ Công cũng bị áp lực rất nặng
của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng. Đây
là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh,
chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Đ́nh nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn
một Trung Đội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn
và thâm độc, lực lượng cộng quân đă bố trí ở hướng có nhiều
nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây
căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lăo già, đàn
bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn
nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí
hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng
bào để có cơ may thủ thắng, th́ c̣n từ ngữ nào, h́nh dung từ tồi tệ
nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt
của cộng sản nữa không.
Đúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ
huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đă mở cuộc tấn công từ hai
mặt đánh vào Giồng Đ́nh, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ
thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng
dường như là chắc chắn, v́ với quân số mười lần hơn, mười
đè một, dẫu chúng có thí chín tên th́ cũng có thể hạ gục được một
chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Đ́nh. Trên lư thuyết, th́ giả thiết đó dường
như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu
trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đă chọn lầm
mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải
nát thành tro, đă chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân
vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối
hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Đ́nh. Nhưng
liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không,
không chỉ đến từ ư chí hừng hực tử thủ của các anh, mà c̣n là từ
đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với
chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng
của Nghĩa Quân đồn Giồng Đ́nh sẽ không thể thực hiện được,
nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này.
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị
dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.
Đồn Giồng Đ́nh nằm ở một vùng thôn ấp hẻo
lánh trong tỉnh G̣ Công, do một Trung Đội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần
chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Đồn Phó
và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy,
không chỉ có 24 tay súng mà đă đủ, nên tất cả những người vợ lính
trong đồn đều đă được chồng huấn luyện sử dụng thành
thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đă được
nhân lên gấp đôi. Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử
sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ ḅ dưới
lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ.
Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng
chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu t́m cái sống trong
khi chồng và cha của họ sắp ngă gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch
tạm rút để tái tổ chức tấn công, th́ t́nh trạng bên trong đồn Giồng
Đ́nh đă khá là bi đát. Đă có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ
c̣n 8 Nghĩa Quân c̣n chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị
thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.
Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ
anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc
được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên,
và là cứu tinh của đồn Giồng Đ́nh. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng
và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối
đầu với một lực lượng quá đông của địch. Nh́n ra ngoài hàng
rào kẽm gai, giặc đă đă tràn vào đen ng̣m như những con quái vật hung hăn. Anh
Hùng chỉ c̣n trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một
khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá
và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không c̣n khóc được nữa
mà đă nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng th́
thào :
- Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm
trợ anh ḅ về giữ. Lô cốt mất là đồn ḿnh mất, em nằm tại đây
giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào th́... th́... em ném lựu đạn ra, có
thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nh́n vợ con, rồi
nh́n về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đă yếu ớt lắm,
có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đă kiệt quệ quá rồi. Số
phận của anh Thi Đồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ
đến chuyện xấu nhất đă xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu
Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, th́ coi như đánh dấu chấm
hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó
quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đă ḥ hét ngay sát bên rồi :
- Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nh́n chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối
cùng. Trong ḷng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con ḿnh. Hai đứa
nhỏ chẳng biết c̣n sống hay đă chết. Anh phóng ḿnh xuống hào chạy băng
băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn
rải vào những cái bóng đen đă quá gần. Anh Hùng đă ḅ vào được lô cốt,
giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn
vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn
có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự
của chị Thàng. Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh
đă đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch
vẫn nỗ ḍn dă ngay sát tuyến pḥng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định
mệnh thảm thiết nhất cũng đă điểm. Chị Thàng sẽ làm ǵ với
quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong ḷng : “ Chỉ c̣n
một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến
sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái ǵ sẽ
xảy đến cho vợ con ḿnh, v́ dưới chân lô cốt anh tử thủ đă đông
nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh
Hùng không biết chắc là ḿnh đă nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn
thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đă kéo dài được một
tiếng đồng hồ, quân địch đă phá được lớp kẽm gai cuối
cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Đ́nh. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965.
T́nh h́nh đă quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, quyết định
thà hy sinh c̣n hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống
liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn :
- Hăy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn...
Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đă thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ
ba. Hăy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn....
Sau tiếng gọi thống thiết của người
Đồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu G̣ Công lập tức bắn vào đồn với loại
đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất
chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch,
quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng
dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như
tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn.
Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những
lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ ḍn, dường
như người ta nghe âm thanh ŕ ŕ của máy bay. Không Quân Việt Nam đă tới. Những
chiếc A1 khu trục cơ đă xuất kích. Đến đây th́ Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ
huy trận đánh đă có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng
Đ́nh đă đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân
Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch
đă kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đă lên,
hai Đại Đội Địa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng G̣ Công chỉ
huy đă đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân cộng đă để lại
trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt
thứ ba, nơi mà anh Đồn Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền
tin đă kháng cự mănh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên
ḿnh rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để
phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này. Anh Thi và anh Hùng đă bắn
địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ
trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau,
một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương
lén trốn về được đă cho biết số bị thương của chúng chở
đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương
Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? V́ nếu
anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết v́ nhiễm trùng, bị
những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục
của thợ mộc, th́ cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu.
Đó là lư do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người
Thương Phế binh cộng sản trên đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, th́ tất cả những
ǵ mà Viêt cộng đă trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng
vừa chấm dứt., quân cộng đă rút đi, th́ anh đă như một người
điên lao ḿnh ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đă một ḿnh một súng trấn giữ
ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái
lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng ḅ vào khúc hào mà anh đă nuốt
nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết
bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một
nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ th́
chị Thàng cũng đi vào cơi chết, v́ chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc
bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đă
chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị
Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt. Tiếng
nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đă
được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào ḷng và
gần như ngất xỉu. Nhưng khi nh́n ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn
ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của ḿnh, anh Hùng thấy trong ḷng
dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng
đă cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng
vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng
mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị
đă đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Đ́nh. Một
người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được
đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, th́ chắc
chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của
đồng Giồng Đ́nh đều sẽ chết hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những
người c̣n sống, những người vợ lính khác đă gục đầu khóc tiếc
thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội
với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê
Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa
binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị
khác trên khắp nẽo chiến trường, chị Thạch Thị Định, chị Bùi Thị
Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất
trong bậc thang xă hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước
nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn
thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu
tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người
lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền
Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia
đ́nh. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, th́ anh
mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. C̣n nếu sự
gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, th́ anh được
phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đă
sinh ra anh. Đầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại
khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một
tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đă không thể chiếm được một
cao điểm. Vị Tiểu Đoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền
Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được
ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đă nai nịt tề chỉnh,
mang thật nhiều lựu đạn ḅ lên, mỗi người cầm một cây gậy
ngắn ḍ đường. Đêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy
lựu đạn vô cái lổ đó, v́ ở đó chính là cái miệng hầm chốt của
địch. Đến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đă reo ḥ trương
Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đă trở thành một
ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những
người lính trận.
Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những
nỗi đắng cay thiệt tḥi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục
và vui ḷng với những ǵ ḿnh có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế
bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa
tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm
hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị Thàng đă chết
đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đă thăng thiên lên cơi vĩnh hằng, nhưng những
người c̣n sống cùng thời với chị, cho măi đến tận bây giờ và ngàn
đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ
CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG. V́ tên chị đă được trân trọng ghi chép vào những
trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống cộng sản quốc
tế và Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm
ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử h́nh thành nhân con người.
AMRENG, NGƯỜI NỮ CHIẾN SĨ CAO NGUYÊN
Quân cộng sản hành quân trên vùng cao nguyên thường khinh
rẻ và húng hiếp các sắc dân Thượng rất thậm tệ. Chúng bắt trai tráng
đi dân công, thậm chí cho bổ sung vào những đơn vị Thượng cộng, người
làng th́ bị ép buộc đóng góp lương thực, lúa gạo. Chúng dùng muối, là thứ
tối cần của người dân miền cao, để đổi chác một cách rất
bất lợi cho người Thượng. Người Thượng sống vất vả
quanh năm, chỉ trông cậy vào những mảnh đất rừng khai phá để trồng
trọt chút hoa màu hay trồng lúa rẫy, không đói đă là may lắm rồi, có c̣n đâu
dư dả để cung phụng cho bọn phỉ cộng. Có nhiều trường hợp
cả làng trong rừng sâu chịu không nỗi cảnh áp bức, giết chóc, đă kéo nhau ra
quận hay tỉnh để xin nương náu với người Kinh.
Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă lập Bộ Phát
Triễn Sắc Tộc để giải quyết những vấn đề của người
thiểu số. Hàng trăm trại tiếp cư tị nạn cộng sản đă được
thiết lập để đón tiếp đồng bào Thượng và giúp đỡ đồng
bào tạo dựng cuộc sống mới. Đất canh tác được cấp phát vô điều
kiện cho đồng bào Thượng tị nạn cộng sản. Thông thường th́
mỗi gia đ́nh thiên tai hay tị nạn đều được cấp phát 10 bao xi măng
và 20 tấm tôn để cất lại một căn nhà nhỏ. Một nước nhỏ,
nghèo là Việt Nam Cộng Ḥa, quanh năm chiến tranh, ngân khoản thiếu thốn, mà đă
cắn răng gồng gánh giúp đỡ hàng triệu người đồng bào bất hạnh
của ḿnh. Không phải “Lá lành đùm lá rách nữa”, mà là “Lá rách đùm lá nát”.
Đă vậy mà thôi đâu, những làng định cư nhỏ bé và nghèo nàn ấy vừa được
dựng lên chưa được bao lâu, th́ Việt cộng đă tràn về đốt phá
tan hoang. Những chiếc lá rách nát lại cắn răng san sẻ cho nhau những ǵ ḿnh có.
Dưới mắt cộng sản, th́ những người dân chạy về phía chính quyền
và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa xin được che chở và giúp đỡ, đều
mang cái tội tày trời là “dân ngụy”, là “phản động”, dù có bắn
bỏ hay đốt cháy nhà cửa của họ cũng là chuyện trừng phạt đương
nhiên của điều mà chúng gọi là cuộc “cách mạng giải phóng”.
Với bản chất là một lũ cướp chuyên nghiệp
và man rợ, cộng sản Hà Nội hiện nay không bao giờ từ bỏ cơ hội
chiếm đoạt đất khẩn hoang của người Thượng. Chúng chờ
cho các sắc tộc Thượng khai phá rừng tạo dựng nên thành những vùng sinh sống
màu mỡ trên những tỉnh cao nguyên, là chúng kiếm chuyện cứớp đoạt một
cách trắng trợn ngay, nại lư do đất đai thuộc về quyền quản lư của
nhà nước, người dân không có quyền sỡ hữu. Mặt khác, chúng áp dụng h́nh
thái thực dân, cho di chuyển dân Kinh gốc Miền Bắc vào ở trên đất mà người
Thượng đă sinh sống từ ngàn năm, lấn dần, lấn dần, người
Thượng kém thế phải lùi măi vào tận rừng sâu,ở chỗ chỉ có nước
độc, bệnh hoạn và đói kém. Đă thế mà cộng sản nào chịu buông tha, chúng
vẫn cứ cho phép những người gọi là di dân tràn vào như vết dầu loang,
để đồng bào Thượng chịu không nỗi phải chạy qua đất Miên
xin tị nạn. Đây là một tiến tŕnh có chủ mưu, có sách lược để tiêu
diệt dần ṃn dân Thượng. Chúng ta có thể thấy ngay rằng, những người
di dân Miền Bắc đă không biết rằng ḿnh đang được rải ra làm phên
dậu pḥng thủ dọc theo dăy biên thùy Trường Sơn, án ngữ con đường
đổ xuống đồng bằng duyên hải, nếu có một đạo quân đánh
sang từ đất Lào và Miên. Cũng tốt, cái phên dậu đó giống như con dao hai
lưỡi, rồi cũng có một ngày những đồng bào di dân nghèo Miền Bắc đó
sẽ trở thành một lực lượng mạnh có khả năng thọc sâu mũi dao
vào tận tim của bọn cộng sản để tiễn chúng xuống tận đáy địa
ngục.
Tức nước th́ có lúc cũng phải vỡ bờ.
Ngày 12.4.2004, nhiều chục ngàn dân Thượng của các sắc tộc sinh sống trong
những tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac, Phước Long, B́nh Long đă kéo vào những thành phố
tỉnh lỵ để h́nh thành một cuộc phản kháng bất bạo động, phản
đối cộng sản Hà Nội đàn áp đức tin đạo Tin Lành, chiếm đoạt
đất đai và quyền sống căn bản của người Thượng. Dưới
mắt cộng sản, dù chỉ là một biểu hiện phản đối nhỏ cũng
đă được gán cho cái tội phản động, tội chết, chứ đừng
nói ǵ đến những cuộc tập trung đông đảo như vậy. Hàng sư đoàn
bộ binh của cộng sản đă được điều động lên phối hợp
với công an đàn áp dă man cuộc tập trung. Hàng trăm đồng bào Thượng đă
bị bắn chết, những người bị thương bị đem vào cô lập trong
bệnh viện nhà nước, không ai có thể vào thăm viếng, kể cả những
phóng viên và những nhà ngoại giao nước ngoài.
Ngày đầu xuân Tân Hợi 1971, trên miền cao nguyên của
Quân Khu II, trong chiến dịch quân sự mà cộng sản gọi là Cao Điểm Tân Hợi
nhằm quấy phá những tỉnh biên thùy đă không thực hiện được. Có thể
bởi hậu quả của những cuộc hành quân Tây chinh vượt biên Cửu Long của
Quân Đoàn IV, Toàn Thắng của Quân Đoàn III và B́nh Tây của Quân Đoàn II trong năm 1970 đă gây
tổn thất nặng ở những kho tiếp tế hậu cần của cộng sản,
nên chúng khó thể đủ sức mở được những mặt trận lớn như
mong muốn. Đêm 31.1.1971, lúc 3 giờ sáng, một lực lượng cộng quân tấn công
vị trí của Đại Đội 838 Địa Phương Quân tại làng Plei Kênh Săn thuộc
tỉnh Pleiku.. Cuộc tấn công đă rất sớm bị thảm bại v́ quân địch
đă không thể ngờ rằng, có những người vợ lính cũng đă chiến
đấu dũng mănh như thế nào. Đại Đội 838 Địa Phương Quân đa số
chiến sĩ là người dân tộc Thượng, là những chiến sĩ sinh ra và lớn
lên ở giữa núi rừng cao nguyên, đă hun đúc các anh trở thành những con người
cứng rắn như những tảng đá khổng lồ trên triền dăy Trường Sơn.
Người Thượng quen sống kiếp du mục du canh, nên khi người lính Thượng
Địa Phương Quân đóng đồn ở đâu th́ vợ con của các anh cũng đi
theo và nhanh chóng thích ứng với môi trường cùng cuộc sống mới ở nơi
đó. Tuy là phụ nữ, nhưng những người đàn bà Tây nguyên dẻo dai không kém
ǵ người đàn ông Thượng. Vai mang gùi nặng trên lưng, chân trần chai sạn
v́ đá cứng và gai nhọn của núi rừng, cùng hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt,
bất cứ một người phụ nữ Thượng nào cũng đă được
thiên nhiên rèn luyện nên thành một mẫu người khỏe mạnh, rắn rỏi, nhưng
vẫn giữ được những dường nét mềm mại tràn đầy mạch
sống. Cho nên khi cuộc chiến đấu nổ ra, th́ những người đàn bà đó
đă rất nhanh chóng trở thành những người nữ binh hăng hái cầm súng đánh
địch. Một trong những người chị đó là chị Ksor Amreng, vợ của
Binh Nhứt Kpa Dan.
Anh chị Dan và Amreng đều là người sắc tộc
Djarai, sinh quán ở quận Phú Túc, tỉnh Phú Bổn. Từ sau khi thành hôn, anh Dan nhập ngũ,
th́ chị Amreng cũng đă theo chồng lên sinh sống trong những tiền đồn hẻo
lánh ở biên giới trong quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku, những địa danh thật
xa lạ với chị : Queng Mep, Plei Kênh Săn. Khi quân cộng sản Bắc Việt nổ
súng tấn công Plei Kênh Săn, chị Amreng đă vững vàng trong tư thế phụ xạ
thủ đại liên cho chồng. Khẩu đại liên M60 nằm phía sau những lổ
châu mai nhỏ đă bị giới hạn rất nhiều khu vực tác xạ, anh Dan quyết
định dời khẩu đại liên sang một vị trí khác có xạ trường rộng
lớn và bao quát hơn. Trong lúc chị Amreng chạy đi chạy lại để khiêng những
thùng đạn đại liên sang vị trí mới, th́ có ba tên Đặc Công Việt cộng đă
nhào vào đánh cận chiến cới anh Dan. Anh Dan thật dũng cảm, như một con
beo ở rừng xanh, bằng tay không anh đă vật lộn với chúng mà không nao núng. Chị
Amreng vừa vác một thùng đạn đến, quát bảo anh Dan tránh ra xa. Hiểu ư vợ,
anh Dan lăn một ṿng, một trái lựu đạn M26 từ trong tay chị Amreng được
ném tới. Ba tên Đặc Công chưa kịp phản ứng, th́ một tiếng nổ chát chúa
đă đốn gục chúng xuống ngay bên cạnh đường giao thông hào. Khẩu đại
liên M60 trong tay đôi vợ chồng Dan và Amreng đă bắt đầu nổ ḍn dă ngăn
chận tất cả những cuộc tấn công biển người của địch
vào đồn. Anh Dan đang say mùi thuốc súng, anh đă không để ư nhiều tên Đặc
Công khác đă ḅ vào gần khẩu đại liên để mở cuộc cận chiến
lần nữa. Nhưng chúng không biết rằng người nữ binh vóc dáng nhỏ bé
với khuôn mặt hiền lành như một em bé đă rất cảnh giác. Ba trái lựu đạn
M26 đă được chị quăng ra rất chính xác vào những cái bóng đen đang ḅ
lổn nhổn. Giữa tiếng súng nổ ầm ầm, chị Amreng đă có thể nghe thấy
tiếng kêu gào thảm thiết của những lính địch trúng phải lựu đạn
của chị. Đến lúc này th́ anh Kpa Dan chợt nhận ra rằng ḿnh đă bị thương,
chị Amreng lập tức trở thành xạ thủ chính, anh Dan lùi qua một bên làm xạ
thủ phụ cho chị. Hào hùng không kém ǵ những đấng nam nhi, người nữ chiến
sĩ ấy đă cùng với khẩu M60 đốn ngă hàng loạt cuộc tấn công của
giặc. Sinh mạng của cái đồn nhỏ Plei Kênh Săn phần lớn trông cậy
vào khẩu đại liên. Nói một cách chính xác, toàn tiền đồn cậy nhờ vào đôi
bàn tay nhỏ nhắn của một cô gái mà ngày thường rất hiền ḥa và ít nói này.
Khi ánh b́nh minh lên, giặc chấp nhận thua cuộc và đă
rút đi, chiến trường đă hoàn toàn im tiếng súng, lũ chim rừng sau một đêm
kinh hoàng đă ríu rít hát ca trên cành lá đón chào một ngày mới. Tin chiến thắng của
Plei Kênh Săn đă bay về đến Pleiku và cái tên Ksor Amreng thật dịu dàng và thật
đẹp ấy đă được người dân thành phố gọi là buồn muôn thuở
này nhắc nhở nhiều. Kinh lẫn Thượng, đồng bào Pleiku đă chung góp gửi
đến chị Amreng và Đại Đội 838 Địa Phương Quân nhiều tặng phẩm
và tiền thưởng. Thiếu Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II đă
đích thân bay trực thăng đến Plei Kênh Săn trân trọng trao gắn cho người
lính không số quân Amreng chiếc huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh, một vinh dự
hiếm có dành cho một người dân sự .
Tấm gương chiến đấu của chị Ksor
Amreng là một trong nhiều tấm gương thầm lặng c̣n chưa được biết
của những người chị trên cao nguyên trong cuộc chiến tranh bảo quốc bi
tráng của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, những thế hệ đi sau anh chị Dan và Amreng
sẽ măi nhớ rằng, ḍng máu kiên cường uy vũ bất năng khuất mà anh chị
cùng những chiến sĩ Thượng từng một thời thể hiện dưới
lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Ḥa và Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là một
niềm kiêu hănh sáng chói mà họ, những đồng bào Thượng đang bị kềm
kẹp oan khuất dưới bàn tay sắt máu của cộng sản Bắc Việt, cũng
sẽ có ngày vùng lên ném những quả lựu đạn và bắn những tràng đại
liên vào giữa mặt bọn chúng, để hủy diệt chúng, bọn vô dân tộc vô thần
đó, và cho chúng biết ḷng quật khởi phi thường của người Nước
Nam.
Phạm Phong Dinh
Subject: |
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của QLVNCH |
|
Author: |
comay |
|
[ Long Điền ] Bài
nầy viết để vinh danh những “Anh Hùng Vô Danh” Địa Phương Quân
và Nghĩa Quân trong cuộc chiến 1954-1975,họ là những người chịu nhiều
đau thương nhất ,tổn thất cao nhất so với các binh chủng khác trong QLVNCH,
đồng thời họ chịu nhiều sĩ nhục từ phiá Cộng sản .V́ chính
CSVN xem họ là kẻ thù nguy hiểm nhất qua 2 câu vè tuyên truyền của VC thời đó:
...
“Ngàn hai bắt được th́ tha. Chín trăm bắt được đem ra chặt đầu”
(1200 đồng là lương hàng tháng của quân
dịch Chủ lực quân,900 là lương của Dân Vệ /Ngĩa Quân)
thực tế CSVN chỉ tuyên truyền vậy
thôi,thời kỳ chiến tranh 1945-1975 chúng bắt được ai th́ hầu hết đều
bị thủ tiêu chớ làm ǵ có tha ai đâu.
- Giới thiệu sơ lược :
Địa phương quân, thời kỳ đầu
được gọi là Bảo an đoàn, là lực lượng vũ trang địa
phương của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa trong thời kỳ chiến tranh Việt
Nam.
Bảo an đoàn được thành lập năm
1955 trên cơ sở thống nhất các lực lượng Bảo chính đoàn, Nghĩa dũng
đoàn, Việt binh đoàn do Pháp bàn giao lại, thu nạp thêm một bộ phận các tín
đồ Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Trong thời gian từ năm
1955 đến 1964, lực lượng Bảo an đoàn trực thuộc Bộ Nội vụ
Việt Nam Cộng ḥa, làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự trị an ở
từng địa phương.
Từ 1964, Bảo an đoàn được chuyển sang
trực thuộc Bộ Quốc pḥng Việt Nam Cộng ḥa và đổi tên thành Địa
phương quân. Địa phương quân tổ chức thành các đại đội
(khoảng 100 người). Trong thời gian từ 1968 đến 1972, lực lượng này
phát triển mạnh từ 895 lên 1.823 đại đội, tương ứng với số
quân 132.000 lên 301.000. Cuối 1972, một số đại đội Địa phương
quân được gộp lại thành tiểu đoàn. Phần lớn các đồn lớn
là của Địa phương quân, do tiểu khu và chi khu điều khiển. Các đồn
nhỏ do phân chi khu (xă), giao cho Nghĩa quân phụ trách. Bộ chỉ huy Quận hay c̣n gọi
là Chi Khu thông thường do lực lượng Nghĩa Quân bảo vệ.
Chi khu trưởng và ban tham mưu chi khu đa số là những
cấp chỉ huy xuất sắc của Chủ Lực Quân đưa sang nên họ đă huấn
luyện ,hướng dẫn các đơn vị ĐPQ/NQ những phương thức hữu
hiệu để tiêu diệt Cộng sản mà họ đă có được kinh nghiệm
khi c̣n chỉ huy các đại đơn vị tinh nhuệ như Nhảy Dù,Biệt Động,Thủy
Quân Lục Chiến v.v…Do đó có nhiều trung đội Nghĩa Quân đánh giặc hữu
hiệu không thua ǵ các đơn vị chủ lực. Chính hai thành phần này mới là những
người bám rễ giữ đất, chịu nhiều gian khổ và thương vong nhất
trong cuộc chiến bảo vệ lănh thổ.
Phiá Cộng sản xem họ là kẻ thù nguy hiểm,nhưng
báo chí Miền Nam Việt nam thời đó cũng tỏ ra có nhiều ngộ nhận không ít
về họ. Có báo th́ cho là lính ma, lính kiểng, có báo th́ cho là binh chủng lạc hậu và
đặt tên là “Con Rùa chậm tiến” chỉ v́ họ không được trang bị
hiện đại bằng các binh chủng khác, luôn luôn được trang bị chậm và
thiếu các loại vũ khí tối tân như M16, M79 phóng lựu. Và thông thường phương
tiện di chuyển hay hành quân họ thảy đều dùng đôi chân của ḿnh chớ không
có phương tiện cơ hữu như quân xa, máy bay. Họ đánh giặc theo kiểu
nhà nghèo. Lương th́ ít ỏi không đủ sống, v́ vậy đôi khi NQ c̣n được
trợ cấp thực phẩm, có 2 câu thơ truyền miệng:
“Dân Vệ Đoàn v́ dân trừ bạo
Hai bao gạo một thùng dầu ’’
(chú thích :Gạo của Hoa Kỳ trợ cấp loại 10 kư
/ bao,dầu là loại dầu ăn hột cải 4 lít)
Nhận định về người lính ĐPQ/NQ
thuộc QLVNCH xin đơn cử một số nhận định sau đây :
1-Quân lực Việt Nam Cộng Hoà: 1968-1975 Bài của
nhà nghiên cứu về Việt Nam Bill Laurie:Xin xem
Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên
gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời tŕnh bày quan điểm
trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và
tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt
Nam thuộc đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3
năm 2006.
Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là
người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về
một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên t́nh báo
cao cấp trong nhiều năm, song song với những ư kiến không quanh co che đạy về
giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam.
Bài này dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để tŕnh bày lại,
vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch
giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt
ngữ.
Sử gia Bill Laurie đă có nhận định như sau về
ĐPQ và NQ:
“Cũng không hề có ai ngụ ư hay nói với tôi rằng
có thể là lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những
dân quân của tỉnh, đă làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn
chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của
Hà Nôi.
“Họ đă nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng
tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đă làm đổi
chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được
pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó
kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa
phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh.”
2-Bài Xác Định Giá Trị Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà của Tiến Sĩ Lewis Sorley (phần nói về ĐPQ/NQ) xin xem
Tiến sĩ Lewis Sorley tốt nghiệp Cử Nhân năm 1956
tại U.S. Military Academy, West Point ; M.A. năm 1963 tại University of Pennsylvania; M.P.A năm 1973
tại Pennsylvania State University; Và Tiến Sĩ (PhD) năm 1979 tại Johns Hopkins University ông
đă chia xẻ về những nhận xét ĐPQ/NQ như sau:
“Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng
mặt để làm việc trong chương tŕnh b́nh định vào mùa Thu 1971. Ông nói với
Tướng Fred Weyand là “tôi đă ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn
thịnh của nông thôn, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân giữ vững vị trí
và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xă. Ta đă giúp làng xă lấy lại
tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham
gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc b́nh định”.
“Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến
Việt Nam th́ quân lực VNCH gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến
và Không Quân-. Ngoài ra c̣n có những lực lượng diện địa bao gồm Địa
Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) phụ trách an ninh lănh thổ. Tỉnh Trưởng
chỉ huy Địa Phương Quân c̣n Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận
Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ
và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đă có 550,000
quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.
ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ
và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết tŕnh WIEU (dự đoán t́nh
báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai tṛ
của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lăng. Người ta chỉ thường
nói đến QLVNCH trong khi đă lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đă
giáng cho quân địch nhiều đ̣n chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến
an ninh cho dân th́ đây mới là phần việc lớn”!
“Cùng một lúc, ông nói
rơ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không biết có nên trang bị thêm
các đại đội Lục Quân không? Nếu có thêm
nhân số th́ tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa(ĐPQ/NQ)
này có lợi hơn”.
Cuối năm 1969, khi nh́n biểu đồ t́nh h́nh trong ba
tháng vừa qua ghi rơ ai đă đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử
vong, Tướng Abrams đă nói: “Thật rơ ràng và đúng. Số địch bị giết,
khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, th́ QLVNCH vẫn giữ nguyên
tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch
là do các lực lượng địa phương và đă xẩy ra từ tháng Tám vừa
qua”.
Một người trong cử tọa nói lớn, “Đó là tính chất của
cuộc chiến”!. Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn
luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào ? Như
vậy hả ? Vâng ta đă bắt đầu thấy kết quả”!
Ông Bill Colby
cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương
cũng bảo vệ được súng của ḿnh. Tỷ lệ khí giới mất
đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn t́nh trạng
năm năm trước đây.
Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng
Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một t́nh trạng đă được duy tŕ lâu nay là ĐPQ và NQ đă
gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.
“NQ đă lần hồi
gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh
sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”! Các sỹ
quan cao cấp Việt Nam cũng nh́n nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng:“Các
ĐPQ và NQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng và đă được
các nhân vật b́nh luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng: “Họ
là mũi nhọn trên chiến trường”!
Ưu điểm :Sở trường của
ĐPQ/NQ là đánh du kích,là triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch ,trong chiến
dịch Phượng Hoàng họ là binh chủng cung cấp tin tức t́nh báo nhiều nhất,chính
xác nhất, đồng thời cũng là đơn vị trực tiếp triển khai hành
quân,thanh lọc,phục kích để tiêu diệt du kích Việt Cộngvà lực lượng
địa phương huyện ,xả của địch.V́ sống gần dân (ĐPQ) trong
dân (NQ)nên họ nhận được nhiều tin tức t́nh báo quư giá,những báo cáo về
sự thâm nhập của quân CS vào trong xả ấp ,những thói quen di chuyển của VC
nên các cuộc đột kích,phục kích của ĐPQ/NQ rất dể thành công.
- Trong thế pḥng thủ đôi khi đối đầu với
chủ lực CS,các chiến sĩ NQ/ĐPQ cũng đă đánh nhiều trận ngoạn
mục
bẻ gảy các cuộc tấn công bằng xe tăng có pháo
binh yễm trợ cuả chủ lực CS Bắc Việt.
-Trong công tác B́nh Định Phát Triển họ là thành phần
xuất sắc góp phần trong các chính sách của Quốc Gia như rào ấp chiến lược,
ấp tân sinh,luật Người Cày Có Ruộng v.v…
-Trong quốc sách Chiêu Hồi mà kết quả trên 200.000 cán binh
VC về hồi chánh để trở về với đại gia đ́nh Dân Tộc th́ ĐPQ/NQ
là có thành tích cao nhất trong việc kêu gọi cán binh VC trở về với chính nghĩa quốc
gia.
-Trong công cuộc trường kỳ kháng chiến của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà băo vệ Miền Nam chống lại sự xâm lăng ồ ạt
của quân chính quy Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự phá rối trị an
của Du Kích Cộng sản c̣n gọi là Việt Cộng (VC) .Lực lượng Diện
Địa bao gồm Điạ Phương Quân( ĐPQ)và Nghĩa Quân (NQ) đăm nhận trọng
trách lớn lao là bảo vệ làng ,xả,thị xả ,tỉnh lỵ, đô thị,trường
học,cầu cống ,quốc lộ,tỉnh lộ,trục lộ giao thông nông thôn, đường
sắt,các công tŕnh quan trọng (như Đập Thủy Điện Đa Nhim,Nhà Đèn Chơ
Quánv.v…)
Có băo vệ an toàn nơi tuyến đầu là nông thôn th́ chốn
hậu phương thành thị mới yên ổn để phát triển và xây dựng,thất
bại ở nông thôn là mất hậu cứ căn bản sẽ bị cộng sản bao
vây và khủng bố. Chúng ta thử nghĩ hậu cứ của các đại đơn vị
cuả QLVNCH tại thủ đô Sài G̣n ,Huế,Cần Thơ v.v..sẽ ra sao nếu không có
vành đai nông thôn do lực lượng ĐPQ/NQ băo vệ an toàn bao bọc.Ngoài ra hàng ngàn công
tŕnh xây dựng của Quốc Gia sẽ ra sao nếu không có sự băo vệ ngày đêm của
lực lượng diện địa ĐPQ/NQ để cho chủ lực quân rảnh tay
hành quân lưu động tảo trừ quân chính quy CS xâm nhập Miền Nam .Nhưng thật
bất công cho họ trước 1975 báo chí VNCH gần như quên lảng họ ,báo chí Hải
Ngoại sau 1975 cũng vậy,xem họ như con ghẻ ,hay nhẹ hơn là xem họ như
những đơn vị thứ yếu trong Quân Lực VNCH !!!
Hảy nghe lời nhận định của Chuẩn Tướng
Lê Nguyên Vỹ tư lệnh Sư Đoàn 5 BB/QLVNCH (lúc đó đang là đại tá Trung Đoàn
trưởng TĐ8/SĐ5) trả lời phỏng vấn cuả Chuẩn Tướng Haig
/QĐ Hoa Kỳ ngày 24.1 . 1970 : “Ông giải thích sự sấp xếp này chỉ cho thấy
cần yểm trợ thêm cho NQ/ĐPQ trong các cuộc hành quân của các đơn vị này
v́ hiện giờ pháo binh của QLVNCH phải yểm trợ cho các đơn vị chính quy
và địa phương quân trong vùng hành quân của Trung Đoàn 8 ….
…. “Chỉnh đốn lại cấu trúc của tất
cả các vị trí pḥng thủ của NQ/ĐPQ theo tiêu chuẩn của SĐ 1 BB HK để
loại bỏ mọi yếu điểm hiện có trong các vị trí này. Rất nhiều vị
trí hiện hữu, lô cốt và công sự pḥng thủ được thiết kế và xây cất
một cách yếu kém và sẽ không chống nổi bất cứ một loại tấn kích
nào.”
“Nhưng ông nói nếu NQ/ĐPQ không chu toàn được
phận vụ bảo toàn an ninh cho các trung tâm đông dân cư, các đơn vị QLVNCH sẽ
buộc phải rút về bảo toàn an ninh cho các vùng đó và rồi các đơn vị QLVNCH
trở lui lại vị thế của năm 1966.”…” Cần có yểm trợ
pháo binh trực tiếp cho NQ/ĐPQ.”
Nhiệm vụ của ĐPQ/NQ thật nặng nề đó
là băo vệ an ninh cho đồng bào sống an lành trong các thôn ấp, đồng thời băo
vệ các thành thị ,tỉnh lỵ,quận lỵ được an b́nh và chống lại
những vụ pháo kích bừa bải của Cộng Nô vào các vùng đông dân cư. Trong khi đó
th́ chủ trương cuả Cộng Sản Việt Nam là dùng nông thôn bao vây thành thị,phá
hoại an ninh tại nông thôn bằng hàng trăm h́nh thức khủng bố,sát hại ,thủ
tiêu ,bắt cóc,bắt thanh niên từ 14,15 tuổi trở lên bổ sung cho lực lượng
VC cho các mật khu,du kích và chủ lực tỉnh ,huyện . ĐPQ/NQ đă triệt hạ
các ư đồ của Cộng Quân là làm cho nông thôn bị mất an ninh để đồng
bào chạy về khu thành thị , để từ đó chúng dùng nông thôn bao vây thành thị
trong chiến lược thôn tính Miền Nam theo chủ trương của Quốc Tế Cộng
Sản.
Nhược điểm :
-Một khi đă chấp nhận nhiệm vụ diện địa
th́ phải có mặt thường xuyên trên địa bàn cố định, đồng thời
phải liên tục tuần tiểu xa và gần để bảo vệ cứ điểm
như đồn bót,chợ búa v.v….Lực lượng diện địa thường
cố định quân số ,ví du băo vệ cầu trên quóc lộ th́ từ cấp tiểu
đội đến trung đội (từ 10 đến 30 quân nhân).Quân số ít thay đổi
do đó dể bị CS điều nghiên đem lực lượng mạnh gấp 3,5 lần
để tấn công.Quân dụng thiếu thốn ,nhất là vật liệu để xây
dựng hệ thống phóng thủ ,hầm hố rất thiếu thốn so với chủ
lực quân nên khó có thể cầm cự khi bị địch ồ ạt tấn công.
-ĐPQ/NQ sống trong quần chúng ,nhận nhiều tin tức
t́nh báo từ dân cư địa phương nhưng đồng thời cũng dể bị
ṛ rỉ thông tin cho Cộng sản tấn công,dể bị cài nội tuyến đánh
úp đồn bót.
-Gánh nặng trách nhiệm , huấn thị phối hợp
của Bộ Tổng Tham Mưu đă minh định rỏ ràng là ĐPQ/NQ lực lượng
băo vệ lănh thổ (cố định),nhưng lại được trang bị yếu
kém so với chủ lực quân đó là 3 yếu tố căn bản giải thích lư do tại
sao lực lượng nầy chạm địch thường xuyên và chịu tổn thất
gấp rưởi hay gấp 2 lần so với chủ lực quân(bao gồm các sư đoàn
Bộ Binh và TQLC,Nhảy Dù ,BĐQ cộng lại ) theo bảng thống kê tổn thất sinh
mạng hàng năm do Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ đúc kết .(xem biểu đồ đính
kèm bên dưới)
-Trong khi đó nhiệm vụ của Chủ Lực Quân là hành
quân lưu động lùng và tiêu diệt chủ lực quân của CSVN ,nhờ yếu tố
di động thường xuyên nên họ ít bị địch tập trung tấn công hơn
so với ĐPQ/NQ.Ngoài ra lực lượng Tổng Trừ Bị gồm các Sư Đoàn
Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến thường hành quân lưu động với quân số
từ cấp Tiểu Đoàn,Trung Đoàn trở lên , đây là các đai đơn vị tinh
nhuệ,có hoả lực không quân và pháo binh cơ hữu cũng như tăng phái yễm trợ
tối đa khi lâm chiến nên CSVN thường tránh né các đại đơn vị nầy
mà t́m cách đánh các đơn vị nhỏ của ĐPQ/NQ. Chứng tỏ trong cuộc
chiến VN áp lực địch luôn đè nặng lên ĐPQ/NQ .Ngoài ra tấn công vào các vị
trí như tỉnh lỵ, đô thị th́ CSVN dể dàng cướp đoạt tài sản dân
chúng,chứ tấn công các đơn vị chủ lực th́ vừa dể bị thiệt
hại và chẳng có tài sản ǵ để cướp ngoài vũ khí.
Những trận đánh chưa ai kể đến cuả
ĐPQ/NQ trong cuộc chiến Việt Nam:
-Có thể nói rất nhiều kể sao cho hết những chiến
công hiển hách cuả anh em chiến sĩ ĐPQ/NQ trên toàn thể Miền Nam từ 1954-1975,tôi
chỉ lươc ra đây một số những chiến công của ĐPQ/NQ chưa hề
được ai nhắc tới :
-Trần VănTựu một chiến sĩ Nghĩa Quân quận
Long Điền ,chức vụ trung đội trưởng,trước kia là một đại
đội trưởng du kích huyện Long Đất ,nhưng sau khi trở về với
chính nghiă quốc gia ,anh đă lập nhiều chiến công hiển hách.Từng hướng
dẩn lực lượng quận vào đột kích mật khu Tam Phước,Minh Đạm
như chổ không người. Đánh giặc đối với Tựu là một cái thích
thú,không hề than van cực nhọc, được đi hành quân là vui ,không thích nhiệm vụ
canh gát. Tỉnh Đội Bà Rịa,huyện đội Long Đất từng bao lần treo
giá anh nghĩa quân nầy c̣n cao hơn sĩ quan trong Chi Khu.V́ tất cả thói quen, đường
đi nước bước cuả VC trong vùng anh thảy đều thuộc nằm ḷng.Trên
đường đột kích mật khu Minh Đạm năm 1965,xuất phát lúc nửa đêm
,trung đội của anh nhận nhiệm vụ dẩn đường ,lực lượng
Quận khoản 4 trung đội NQ theo sau Anh là trung đội trưởng vừa là khinh
binh đi đầu .C̣n độ 500 thước nửa đến mật khu .Nh́n dấu
chà chôm (chổi bằng cành cây trong rừng) vừa mới quét,anh biết ngay là sắp vào mật
khu,ra lệnh cho anh em dừng lại để anh đích thân ḅ đi đầu tháo gở
ḿn bẩy,anh đă áp sát và hạ thủ tên du kích gát giặc dể dàng không tiếng động,kế
đó 1 tên vừa ra suối đánh răng cũng bị anh hạ thủ nhẹ nhàng.Ra thủ
hiệu cho thuộc cấp ḅ theo,lần lượt mỗi anh NQ đứng kế bên mỗi
chiếc vỏng của kẻ thù, bằng 1 thủ hiệu kế tiếp tiểu đội
anh đă đồng loạt thanh toán gọn trên 10 tên VC cỏn đang ngủ trên vỏng bằng
lưởi lê mà không hề nổ 1 phát súng.Sau đó cắt người canh gát thay cho VC, lục
soát các hầm trú ẩn , xong rồi mới báo cáo cho Quận đem quân vào thanh toán phá huỷ
căn cứ địch.
Có đi bên cạnh anh th́ mới biết khả năng tác chiến
trong rừng của anh rất cao, đầy khôn khéo.Mỗi hành động đều có tính
toán nhanh như sao xẹt, phản ứng rất nhanh và chính xác.Một lần đang đi
cùng tiểu đội đi đến điểm phục kích đêm,anh vô t́nh đi ngang qua
một cửa sổ có 1 tên du kích đang về thăm nhà ,ngoài ra c̣n có 2,3 đồng bọn
canh gát ngoài xa.Tên du kích thoáng thấy dáng anh la lên hỏi:”ai?” .Anh b́nh tỉnh đi chậm
lại ,không quay đầu,khong hấp tấp trả lời :”ḿnh đây mà!”rồi
tiếp tục đi b́nh thường.Tên du kích mắc lừa tưởng đồng bọn
,không nổ súng,vừa qua khỏi vách nhà anh xoay ngang trả lời bằng 1 tràng tiểu liên
Thompson kết liểu tên VC trong nhà.Bởi v́ nếu anh tỏ ra hấp tấp hay chạy th́
tên nầy sẽ nổ súng trước anhvà sẽ hạ anh dể dàng.
C̣n hàng trăm chuyện lớn ,chuyện nhỏ của anh trong
đời lính đẹp như ciné,lính trong quận thi nhau kể về anh như thế!
Nhưng hể có tài th́ lại có tật,trong bất kỳ cuộc hành quân nào ,dù cấp chỉ
huy có ra lịnh,lục soát bi đông cuả anh cẩn thận đến đâu,hể đi
ngang qua xóm nhà dân th́ anh chàng mua bidon rượu đế lúc nào không ai biết ,rồi vừa
đi vừa lén uống từ từ !
Một lần đi hành quân qua vùng An Ngải ,ta và địch
chạm súng bất ngờ, địch khai hỏa trước làm cho ta bị thương
2 NQ,địch có cây cối bao che,bên ta trống trải nên đành nằm bẹp để
chịu trận.Quân ta dàn hàng ngang chờ đợi v́ địch đang có chướng ngại
vật bao che,có gốc cây lớn làm điểm tựa , địch bắn sẻ chứ
chưa dám xung phong v́ hai bên ngang ngửa.Th́nh ĺnh anh chàng Tựu nổi nóng v́ nảy giờ
phải mọp bên bờ ruộng ,từ từ cởi súng , đạn ra để 1 bên chỉ
đeo dây ba chạt đầy lựu đạn M26,không nói 1 lời,không xin phép cấp chỉ
huy. Đứng dậy vụt chạy cực nhanh thẳng vào vị trí địch,trong khi
đồng đội thảy đều bất ngờ.Anh ta chạy có kỹ thuật chử
chi hẳn hoi ,hai tay 2 quả lựu đạn ,c̣n cách khẩu thượng liên 10 mét,tông 2
quả lựu đạn xong rồi nằm chờ.Hai tiếng nổ long trời vừa nổ
chưa hết khói là lúc anh ta phóng ḿnh chạy vô lượm súng và thanh toán địch bằng
chính AK cuả địch.Tới đó th́ trung đội c̣n lại mới giật ḿnh mà xung
phong theo anh.Trận đụng độ chơp nhoáng nầy ta hạ sát được 4
tên VC,số c̣n lại hoảng quá chạy hết.Anh chàng Tựu đứng lên cười
ha hả làm cho chúng nó nín thở mà chạy,bỏ lại khẩu thượng liên và 2 khẩu
AK.Diển tả th́ dài ḍng mà diến tiến ngoài mặt trận th́ nhanh như chớp mắt,không
ai ngờ anh Tựu lại thanh toán địch nhanh đến như vậy!
Tức ḿnh v́ anh nầy làm càn không xin phép,sỉ quan Chi Khu kêu
anh lại quở trách .Anh chàng trả lời tỉnh bơ “thiếu úy ơi ,em đâu
có ngu,em bỏ súng lại ,chạy ḿnh không vô tụi nó ,chơi cho tụi nó 2 quả,lở
thời tụi nó bắn giỏi th́ cùng lắm là chết ḿnh em ,chúng nó đâu lấy được
súng em đâu!”Rồi cười hề hề làm sao mà nổi nóng với anh chàng ba gai nầy
được!
Một lần VC phát loa,gần bên hông dinh Quận chừng trăm
thước,chắc có lẻ độ tiểu đội du kích ḅ vô,phát loa tuyên truyền
chừng 5,10 phút rồi sẽ bỏ chạy,trong quận th́ chưa biết phản ứng
ra sao v́ VC đang nấp bên nhà dân,bắn ra th́ sợ trúng dân,không bắn th́ cũng kẹt.Anh
chàng Tựu giơ tay t́nh nguyện :”Xin ông thầy cho em ra lấy cái loa, đừng bắn
ra tui nó ,coi chừng trúng em,em hưá bắt gọn lấy cái loa nộp ông thầy mà “
Với cây tiểu liên bá xếp anh ḅ ra ngoài bằng cổng hậu rồi lần ṃ ra tới
nơi tên phát loa, đứng dậy bắn 1 phát lấy cái loa chạy vô quận ,tụi du
kích c̣n lại bắn theo nhưng không kịp với con sóc nhanh nhẹn nầy.Diển tiến
chưa đầy 10 phút th́ anh đă thanh toán xong mục tiêu !Với kích thước nhỏ
con độ chừng 1m,55 thôi nhưng anh chàng NQ gan dạ nầy làm cho bọn VC trong vùng kinh
hồn tán đởm.
-Ở chi khu Đất Đỏ cũng có vài anh NQ gan cóc tiá
,y hệt anh Tựu.Anh nầy tên ǵ tôi quên rồi,chỉ c̣n nhớ sự việc như vầy
: khoản năm 1967 VC bao vây Chi Khu Đất Đỏ ngay gửa ban ngày, ṿng vây chưa thắt
lại gần ,chúng đă xâm nhập vào 2 xả Phước Thạnh và Phước Hoà Long
cách BCH Chi Khu độ 2 cây số đường chim bay,chúng bắn cầm chừng nhưng
lực lượng thâm nhập vô quận lỵ rất đông ,có lẻ để chờ
đánh lực lượng tiếp viện của Tỉnh.Quân số chúng độ khoản
trung đoàn .Những toán quân tuần tiểu cuả ta đụng độ lẻ tẻ
với địch nhưng phải rút về Chi Khu v́ địch quân số địch quá
đông. Được tin t́nh báo của dân và vợ lính cho biết VC đang đóng quân nhiều
nơi,trong đó có 1 chổ đặt Bộ Chỉ Huy gần nhà dân,muốn phối kiểm
tin tức để có thể sử dụng pháo binh đánh chính xác điạ điểm
v́ sợ lầm nhà dân , ông Chi Khu Trưởng đích thân tập hợp trung đội NQ thám
báo Chi Khu để t́m 1 người t́nh nguyện đi ra ngoài ,vào tận nơi để
xem xét t́nh h́nh.Cuộc đi nầy muôn vàn nguy hiểm v́ vậy ông Chi Khu Trưởng cần
1 người t́nh nguyện .Trong ṿng 5 phút giải thích lư do,có đến 3 anh NQ t́nh nguyện
!Anh chàng được chọn v́ anh viện cớ có vợ chưa có con,có ǵ th́ nhờ 2 bạn
kia lo giùm vợ con .Anh giả trang người đi cày vác cuốc ,mặc aó bà ba,lận lựu
đạn trong người.Lấy cớ đang cày bừa,nghe nổ súng nên chạy về
nhà .Anh qua mặt du kích gát dể dàng ,xâm xâm đi vào vùng địch kiểm soát, đi về
hướng BCH trung đoàn địch với cây cuốc trên vai!Qua mấy xóm nhà dân,gần
đến BCH th́ địch khả nghi ,hô đứng lại,anh vụt chạy thẳng vô
căn nhà VC đóng BCH nên chúng chưa dám nổ súng sợ trúng cấp chỉ huy.Anh xông tới
gần ,ném 2 quả lựu đạn rồi chạy ra ngoài sau khi nổ xong,tiêu diệt trọn
ổ BCH Việt Cộng .Sau đó anh chạy thoát được ra ngoài v́ chúng hoảng loạn
,măi gần 4 giờ đồng hồ sau anh mới về đến được Chi Khu
,hoàn thành nhiệm vụ t́nh báo !!!Nhờ tin tức chính xác Chi Khu sau đó đă bắn pháo
binh vào đúng tọa độ anh NQ nầy cho , đồng thời lợi dụng lúc địch
đang bối rối v́ BCH bị thiệt hại nặng,Chi Khu đă nhanh chóng điều
động lực lượng ĐPQ phối hợp NQ giải toả ṿng vây , Địch
bỏ chạy ,rút hết v́ đă lộ kế hoạch .
-Đồn Bờ Đập thuộc xả Hội Mỷ quận
Đất Đỏ do 1 trung đội thuộc Đại Đội 612 ĐPQ đăm trách,tối
đi phục kích 2 tiểu đội ,c̣n 1 tiểu đội ở nhà giử đồn
.Vợ lính cũng cắt gát 1 vọng v́ thiếu quân số. Đêm đó (khoản năm 1967
)VC sử dụng 1 tiểu đoàn chính quy,có súng phun lửa,DKZ,B40 cộng thêm dân công ước
độ vài trăm người tấn công biển người với cái đồn nhỏ
chỉ độ 10 người lính với 15 bà vợ lính, 2 tiểu đội đi phục
kích bên ngoài cũng không về tiếp ứng được,các bà vợ lính đă chiến
đấu dủng cảm ,con nít th́ tiếp tế đạn,lựu đạn ,họ đă
cầm cự đến sáng Chi Khu mới đưa quân đến tiếp ứng kịp
thời,sau đó thu gom xác VC chết chung quanh đồn gần 60 tên ,mượn xe pulldozer
uỉ 1 cái hố dá 20 mét ,chôn chung mấy anh “sinh Bắc tử Nam” nầy chung 1 hố
có cấm bảng lớn ghi rỏ ràng :”Mồ chôn Cộng Phỉ”.Không hiểu sau
75, VC có đào đi cải táng không th́ không rỏ.Phần nầy chắc chúng không dám ghi vào
quân sử v́ tủi hổ quá :10 đánh 1, mà một lại thắng !Mấy bà vợ lính sau
đó có được Tỉnh tặng bằng khen ,có truyền h́nh từ Sá G̣n đến
quay phim làm lại trận giả ,quay lại trận đánh để đời nầy,không
rỏ chiếu được mấy lần!.Sau trận nầy có 1 chi tiết đứng
tim. Đó là khi trên Tiểu Khu đến nghiên cứu trận liệt có 2 ,3 sĩ quan cấp
tá đến xem xét , th́ có 1 tên VC quá sợ đă trốn im ĺm trong bụi cây ôm khẩu AK ,trời
sáng bét mới giơ khẩu AK đứng lên đầu hàng,làm ai nấy 1 phen hú hồn v́
nó mà c̣n can đảm quơ 1 băng AK chắc phải có 2 ,3 người chết v́ tên nầy!
Lính NQ ở các quận nói chung rất gan dạ, chiến đấu
trường kỳ không hề than van ,họ có ưu diểm sống gần nhà ,gần quê
quán nên không dám làm ǵ sai quấy sợ bà con chê cười.Trong khi đó lực lượng
chủ lực xa nhà ,xa quê ,nếu cấp chỉ huy không kiểm soát kỷ dể có t́nh trạng
kiêu binh làm mất ḷng dân .Anh em ĐPQ/NQ rất sợ mất ḷng dân nên họ gử ǵn kỷ
luật rất giỏi. Đây chỉ là nhận xét chung chung ,không có ư so sánh với các binh chủng
đàn anh.Bởi v́ các trận đánh lớn binh chủng Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến
,Biệt Động Quân v.v.. xứng đáng bậc đàn anh vang lừng trong quân sử c̣n
NQ/ĐPQ chỉ sở trường những trận nhỏ không tên mà thôi.
-Trong trận chiến sau cùng tại Chi Khu Long Thành ngày 24 tháng
4 năm 1975 tôi đă mục kích những người lính Nghĩa Quân Long Thành bắn cháy 4,5
chiếc T54 qua những màn sáp lá cà c̣n hayhơn phim ảnhMỹ!!!Ai có dịp đi ngang quốc
lộ 15 đoạn quận lỵ Long Thành sau ngày 30.4.75 chắc đă thấy 5,7 xác T54 của
VC cháy c̣ng queo trước quận lỵ Long Thành , đó là chiến công của Nghiă Quân Long
Thành đánh tăng T54 bằng M72 và M79 chống tăng rất giỏi .Trung Tá Sáu Quận Trưởng
kiêm Chi Khu Trưởng đă đánh một trận khiến cho Cộng Quân nhớ đời.Trung
Tá Sáu trong trận đánh đă đi từng vị trí của NQ để động viên
binh sĩ, đồng thời ông cầm nón sắt đi xin các binh sĩ nào c̣n lưụ đạn
để đính thân ông đem ra cổng chánh cho binh sĩ ném vào các chiến xa địch
đang tràn vào,một chiếc T54 bị đứt xích 1 bên v́ trúng M72 quay ṿng ṿng trước
cổng chi khu sau đó đă bị 1 chiến sĩ NQ phóng lên thảy1 trái lựu đạn
vào buồng lái kết thúc cưộc đời của “con cua”gảy càng nầy.Hành
động can đăm nầy cuả anh NQ đă trả giá bằng chính bàn tay của anh ,v́ thế
TT Sáu đă xin trực thăng tản thương anh chiến sĩ can trường nầy
trong khi 2 bên c̣n đang đánh nhau dử dội !Sau nầy nghe kể lại c̣n có 1 trung đội
NQ đồn trú trên Quốc lộ 15 gần quận lỵ Long Thành ,hết ngày 2 tháng 5 trung
đội NQ nầy vẫn kiên tŕ chống CS tới viên đạn cuối cùng,vừa bắn
nhau vừa kéo chuông nhà thờ kêu gọi quyết tử!!!
xin xem Đốt Cháy Thân Nên Ngọn Lửa bài của Phan Nhật Nam .
Ở Vùng 4/Chiến Thuật cũng vậy ,chẳng những
chồng đánh giặc mà vợ ,con ĐPQ/NQ trong đồn cũng đánh giặc luôn:
Chị Nguyễn Thị Thàng vợ của Nghĩa Quân trưởng
đồn Giồng Trôm, Kiến Ḥa đă cùng những đứa con, bên cạnh xác chồng,
nỗ tung trái lựu đạn cuối cùng tại giờ phút đau thương oan nghiệt
của sáng 30 tháng Tư, 1975. Năm 1802, để thực hiện lời nguyền "báo thù
cho tiên đế ba đời", Nguyễn Vương Gia Long xử tử tất cả triều
đ́nh Tây Sơn bằng những biện pháp hành h́nh gớm ghê man rợ nhất. Nữ Tướng
Bùi Thị Xuân trước giờ vĩnh quyết ở pháp trường, đă quắt mắt,
bật tiếng hét oai vũ khiến con voi trận (đem đến dày lên con gái nhỏ của
bà) phải tung xiềng chạy trốn, và chỉ chết khi thân thể bị xử lăng
tŕ- đốt cháy bởi sợi bấc tẩm dầu cắm sâu vào thịt. Nữ Tướng
không tiếng kêu than nhận cái chết để bày tỏ ḷng trung nghĩa với chồng,
Thái Úy Trần Quang Diệu và Tiên Vương Quang Trung. Chị Nguyễn Thị Thàng chết
cùng lần với chiếc đồn bị bộ đội cộng sản tràn ngập,
người chồng vừa tử trận. Đồn Giồng Trôm, Kiến Ḥa ở nơi đâu?
Chị Nguyễn Thị Thàng là ai? Tổ quốc, quốc gia, chính phủ, cộng ḥa, dân chủ..
hẳn là những chữ nghĩa không nằm trong ư niệm của người đàn bà b́nh
thường ấy. Nhưng quả thật, Người Đàn Bà Việt Nam tên gọi Nguyễn
Thị Thàng đă sống- chiến đấu- chết về một điều đơn
giản không bao giờ diễn giải, nói ra lời: Sống-Chết Tự Do - Trọn
Nghĩa Vợ Chồng.
Người viết được biết trong các vùng chiến
thuật,các tiểu khu ,các chi khu c̣n rất nhiều đơn vị ĐPQ/NQ xuất sắc
nhưng chưa được ai biết đến.Kính mong quư chiến hữu viết nhiều
bài về các đơn vị ĐPQ/NQ anh hùng để mai sau lịch sử c̣n biết đến
các đơn vị vô danh đă góp nhiều máu xương trong công cuộc băo vệ Miền
Nam Việt Nam trong suốt 20 năm trường chiến đấu gian khổ.Hoặc chuyển
những tài liệu về các trận đánh của ĐPQ/NQ về cho chúng tôi để đúc
kết đưa ra trước công luận những trận đánh để đời
của binh chủng khiêm nhường nầy,kính mong quư chiến hữu gởi thơ từ
tài liệu hay bài viết về cho trang web của lính : http://www.toquocdanhdutrachnhiem.com/ hoạc
email về trang web : toquocdanhdutrachnhiem@yahoo.com chúng tôi sẽ đúc kết và phổ biến
cho đồng đội, đồng bào và thanh niên thế hệ trẻ quốc nội cũng
như hải ngoại những bài học thế hệ trước đă chiến đấu
chống loài Cộng Phĩ như thế nào.Rất hân hạnh đón chờ sự đóng
góp của quư bạn.
Tổng kết : ĐPQ/NQ là lực lượng
“Sinh sau đẻ muộn”của QLVNCH ,có nhiều sở trường cũng nhu nhiều
sở đoản,nhiệm vụ được giao th́ nặng nề,nhưng trang bị
,yểm trợ lại yếu kém do đó có nơi th́ hoàn thành xuất sắc,có nơi th́ chỉ
trung b́nh .Tuy nhiên qua những điều vừa phân tích có nhiều bất công đối với
họ ,kể cả những bất công chung của QLVNCH bị nhóm truyền thông bất lương
bôi bẩn có mục đích thương mại và chính trị,bị đồng minh xem thường
và phản bội ,vậy phải trả lại “Công Đạo”cho họ .Họ
là những anh hùng vô danh,khong có ai cậy nhờ để phục hồi danh dự,nhưng
họ cũng không xin xỏ và luôn ngẩng cao đầu mà đi v́ xét cho cùng họ đă đóng
góp xương máu của ḿnh nhiều nhất cho Quốc Gia và Dân Tộc.
Trong thời điểm từ 1972 đến 1975 ,sự sai
lầm về chiến lược trong việc sử dụng các sư đoàn bộ binh và
các sư đoàn tổng trừ bị vào nhiệm vụ băo vệ lănh thổ,thay v́ sử
dụng lực lượng ĐPQ/NQ là nổ lực chánh trong pḥng thủ diện địa
để các sư đoàn bộ binh và các lực lượng tổng trừ bị Nhảy
Dù,Thủy Quân Lục Chiến rảnh tay hoàn toàn lưu động 100% để tiếp ứng
chiến trường bất cứ nơi nào cần .Khốn thay cuối năm 1974 và đầu
năm 1975 chúng ta đă không c̣n lực lượng tổng trừ bị nào cả khi Cộng
Sản dốc toàn lực tấn công!
Nhưng trận chiến 1975 chưa phải là trận chiến
sau cùng.Những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà và toàn dân Việt Nam kiêu hùng
sẽ dành lại quyền tự quyết ,lật đổ bạo quyền để xây
dựng lại quê hương và băo vệ biên cương trước mưu đồ xâm
lược của kẻ thù truyền kiếp từ Phương Bắc và thái độ hèn
hạ dâng đất ,dâng biển cho Tàu Cộng của bè lủ cộng sản Việt Gian.
Long Điền 25.12.2008 Ghi Chú :muốn xem trọn bài xin bấm Ctrl (control)+ click vào các link đính kèm.
Regular Force Chủ Lực Quân bao gồm c ác sư
đoàn B ộ Binh,Nhảy Dù ,Thủy Quân Lục Chiến,các Liện Đoàn Biệt Động
Quân.
RF/PF=Regional Force (Địa Phương Quân)/Popular Force
militia (Nghiă Quân ), Para=paramilitary forces(Lực lượng bán Quân sự bao gồm Cảnh
sát,Xây Dựng Nông Thôn,Thám sát Tỉnh v.v…) xin xem
Note 1: there were an additional 10,824 non-hostile deaths for a total of
58,202 Note 2: of the 304,704 WIA, 153,329 required hospitalization Note 3: this number decreases as remains are recovered
and identified Note 4: 114 died in captivity Note 5: Does not include 101,511 Hoi Chanh(c ó t ài
li ệu tr ên 200.000 c án binh C ộng s ản Hồi Ch ánh)
Legend: KIA = Killed In Action WIA(t ử tr ận) = Wounded
In Action MIA(b ị th ư ơng) = Missing In Action (m ất t ích)CIA = Captured
In Action (b ị b ắt)
Chú Thích :
ARVN=QLVNCH, NVA/VC=Bộ đội Bắc Việt v à Việt Cộng
, xin xem
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà: 1968-1975 Bài của nhà nghiên
cứu về Việt Nam Bill Laurie
Xem đầy đủ h́nh ảnh và tài liệu về Quốc
sách Chiêu Hồi ở trang web : quyển sách nói về Chính sách Chiêu Hồi của VNCH từ 1963-1971 gồm 252 trang
Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc
nầy là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất v́ đă được
chứng minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những
hồi chánh viên không c̣n bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được
đối xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại
gia đ́nh Dân Tộc.
Tem kỹ niệm ngày 18 tháng 2 năm 1973 là ngày đạt được
người Hồi Chánh thứ 200.000 (Tương đương với quân số 20 sư
đoàn )và giấy thông hành cho cán binh cộng sản muốn về hồi chánh.
Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc nầy
là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất v́ đă được chứng
minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những hồi
chánh viên không c̣n bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được đối
xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại gia đ́nh
Dân Tộc.
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com |
Subject: |
Những Anh Hùng Vô Danh |
|
Author: |
amdahl |
|
Những Anh Hùng Vô Danh Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
"Thành
kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn
Dak Seang"
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm" Đại úy Ngọc
tḥng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất
cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ư đó là một
câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả v́ ḷng tôi đang héo hon như
cái vỏ xe bị x́ lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột
về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá
3 số 5. Chiều đại yến với la de, nem nướng, ṣ huyết mà phải khăn
gói qủa mướp ra đi như thế này th́ thật là đau khổ vô cùng, lại mới
bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm ḥa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hăi. Đi biền
biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng ḿnh... rớt máy bay chết
rồi bèn đi cặp thằng khác th́ hết một đời trai. Cứ tưởng tượng
cái cảnh Thủy cặp tay một thằng chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi
nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy ... hết muốn bay bổng. Đời phi
công sao khổ thế nầy, tôi than thở. Có lẽ thấy được những cái vẻ
đau khổ khó chịu trên khuôn mặt thằng Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
Nh́n thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng
của những ngày..chưa lấy vợ.
Tôi phản đối "ở Phi Đoàn 114
mà không biết phản đối th́ chẳng bao giờ lớn được". Chưa lấy
vợ th́ khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng ǵ anh?. Bị đào hành lên hành xuống,
quay ṿng ṿng như con mắm có ǵ mà huy hoàng. Lại c̣n phải đi biệt phái lâu ngày như
thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ... mất
đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh....
chẳng biết mẹ ǵ cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị
của những ngày biệt phái. Này nhé, ở nhà với vợ, có thằng chó nào dám ti teo, đi
phải thưa về phải tŕnh, tiền bạc phải "báo cáo"đầy đủ. Ấy
là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời th́ phải sống có qui củ,
có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. Thằng nào cũng
muốn kiếm thêm tí điểm th́ phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt
phái, nói một cách văn chương, đó là "những ngày nghỉ mát" v́ thứ nhất ḿnh
thoát khỏi ṿng cương tỏa... bà tư lệnh , muốn làm ǵ th́ làm, gặp bất
kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn
khoe ḿnh chưa vợ hay vợ... mới chết th́ đó là quyền của ḿnh. Các cô thôn nữ
vốn dễ dăi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi. Thứ
hai, đi biệt phái, cuộc sống không g̣ bó như ở phi đoàn. Ḿnh tự chỉ huy
lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc,
thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.
Mười
tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày ḍm ba cái đồng
hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có "Action" phải
có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v.
Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đă thấy
xiêu ḷng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị
kềm kẹp vậy chả trách ǵ ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm
thấy h́nh như tôi đă thấm ư, nên kết luận.
- Đó là những cái khác nhau
giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ
nh́n lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi.
Rồi hứng t́nh, anh chơi thêm
hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất...văn học chút nào hết.
"T́nh
chỉ đẹp khi c̣n dang dở Đời hết vui khi đă vẹn câu thề"
Sau
hai câu thơ là một chuỗi cười h́ h́ nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu
của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua c̣n ngây ngất trong máu tôi, làm đầu
óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
- Anh bay hộ, em buồn ngủ
quá.
Anh Ngọc dễ dăi:
- Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống
đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau,
nhắm mắt làm một giấc ngon lành....
Biệt đội Kontum lần ấy, các
phi hành đoàn ở trong cư xá văng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kon-tum
như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính.
Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động
Quân, lính Biệt Kích.....,ai nấy vơ khí trang bị tới răng trông phát khiếp. Lâu lâu, phải
chịu khó t́m ṭi và chờ đúng giờ tan học mới nh́n thấy được vài tà
áo dài phất phơ của các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa
lạc lơng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn
của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được
mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái
vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nh́n ngắm những
tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về
khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ
nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ
Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch
này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ
một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng
súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi
giường:
- "Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C...ǵ mà bắn độc thế? Sao
không về nhà mà bắn... bà xă cho được việc", một giọng càu nhàu cất lên.
Lại
có giọng khác hăm dọa " ngày mai tao phải "phản đấu" mới được.
Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại
úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy "phản đấu"
ai một lần th́ ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ
được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt th́ lại "ầm"
một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống
vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa,
chửi thề um sùm "Đ.." mọa nó, bén chi mà bén miết..".
Thế là hết mẹ
nó một tiếng đồng hồ nữa rồi... Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm
sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như
tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Phải đi biệt phái những nơi như
vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ
binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống
và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục th́
chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát.
Tôi đă tận mắt nh́n thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao
thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v..
Các anh cũng là người với những cảm giác b́nh thường, biết lạnh,
biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết. Mănh lực
nào, sức lôi cuốn nào đă khiến anh em từ bỏ gia đ́nh ôm cây M16 để trở
thành người lính bộ binh. Trở thành người lính bộ binh để "chết thay
dùm dân tộc" để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy. Chắc
chắn không phải để lănh số lương mười mấy ngàn, chỉ đủ
mua bao gạo. Cũng không phải v́ sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu
ngơ. Cũng càng không phải v́ mủi ḷng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền
của chính phủ dán trong thành phố, hay v́ câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền.
Tôi nghĩ, anh em đă ra đi chỉ v́ ḷng yêu nước. V́, anh em nghĩ rằng cầm
súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn.
Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ "Yêu" yêu Quê Hương yêu Tổ
Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả.
Chỉ vài ngày đi bay
mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rơ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ
muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết
cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông g̣n nhét kín
hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn. Có thằng...
Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần
đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đă lẩm cẩm mà người
lại c̣n lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy,
móc bông g̣n ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống.
Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi
thắc mắc:
- Mày làm cái tṛ khỉ ǵ đó ông Thiếu úy On?
Nó đáp tỉnh queo
:
- Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suưt bật
cười. Đúng là thằng lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông
g̣n ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu :
- Tao có ư kiến
này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông g̣n ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt
kín để khỏi nghe pháo binh ḿnh, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.
Một
thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc ḷ của tôi, thằng On chửi
thề:
- Đ.. M.. thằng mất dạy. Mày mà đ̣i móc ḷ tao sao được. Tao
đâu có ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người quả
thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ c̣n nhớ Thủy... sơ
sơ thôi chứ không c̣n "nồng nàn da diết" như những ngày mới đến đây
nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống
cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với
lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không
chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám
người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi... ĺ đến tới tối.
Giữa
khu rừng núi hoang dại này, dể ǵ kiếm được một cành hoa. Tôi để
ư thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi
biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái
khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định
phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là... màu tím hoa sim,
coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững
chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính tḥ tay ra sờ
mông em th́ bị nó gạt phắt đi, điệu hung hăn làm như nó... chưa sờ đít
ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu ǵ hay tán tỉnh ǵ th́ kệ nó, tôi không để
ư tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định
dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối
cái mục này. Tôi biết thằng khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu.
Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết. Chả trách ǵ
nhà văn Shakespeare đă phán một cau "everybody loves the lover". Cả thế giới đều
yêu một kẻ si t́nh. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục thằng
như Thiếu úy On th́ tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn,
tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc
mắt lên, cười khỉnh " Vừa phải thôi... tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn
mày".
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB
không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn " giặc cỏ"
đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên
đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau th́
trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại
úy Ngọc đi " duy tŕ khả năng" bắn rocket. "duy tŕ khả năng" là một danh từ
không quân dành cho những anh chàng phi công văn pḥng, sợ lâu quá không bay th́ lúc leo lên tàu, th́ quên
béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay "duy tŕ khả năng" cho khỏi
quên.
Tôi th́ khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như 'Dăng gô" bắn súng. Chỉ
đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán v́ lối
bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần
như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp c̣. Bắn th́ dể nhưng
khi kéo tàu lên mới là cực h́nh. "G" đâu mà lắm thế , mặt mũi cứ dài ra cả
thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn.
Nhiều khi anh c̣n nh́n "tác phẩm" của tôi phê b́nh "Số mày sinh ra để bay khu trục
mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc".
Ngày cuối cùng của cuộc
biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời,
làm vài ṿng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
- Hay ḿnh làm vài ṿng, nếu không có ǵ th́ đi
kiếm cái cḥi thượng nào đó "duy tŕ khả năng" rồi về đáp. Mai đổi
biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:
-
Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để
bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái ǵ thắc trong đầu anh mà
tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
- Mày để ư thấy chiến trường lần này,
đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?
Tôi chả
biết ǵ, trả lời:
- Yên th́ có yên đó, nhưng mà có ǵ không anh?
- Thường
thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
-
Mai ḿnh về rồi, nhằm nḥ ǵ.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng
gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại
úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một ṿng.
- Để tao coi. Đ.M. h́nh
như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M.
đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm
Hành Quân, báo cáo những ǵ ḿnh thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút,
Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu
cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở
lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh
hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô th́ bổng hàng chục cây pḥng
không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu v́ tôi
nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: "15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lănh
một viên vào.. đít là xui quảy.." vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê
b́nh:
- Trên trời mà pḥng không "kèm cứng một rừng" như vậy là dưới
đất nó đă chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng th́ đồn
này chắc mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ
được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn
Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ
pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi ŕnh ŕnh lại chui vào
từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm
việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần
8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây th́ phải
mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc
chửi thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến
sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C..
ở đây."
Tôi đă cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng
vừa xuất hiện là bị hàng chục họng pḥng không thổi rào rào vô mặt, đuổi
trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với mấy cụm
mây...VC này. Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại
pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng
đối diện cứ tà tà nă từng trái một vào đồn. Từ trên, tôi nh́n thấy
rơ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả
đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo
"phụ diễn". Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến
gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện,
anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ.
Vừa nhận được tọa độ, đă nghe ở dưới đất kêu
trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới... Têt cũng huề.
- Th́ bạn
quay ṇng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
-
Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ
- Yếu tố mẹ ǵ, bắn đi
bạn....
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang
có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
- Nghe 5 bạn
-
Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái
rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm
trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia th́
c̣n hầm c̣n hố nào. Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế...chết người.
-
Nếu để nó pháo điệu này th́ chừng tí nữa quân ḿnh chẳng c̣n ǵ hết. Ḿnh
phải "chiến tranh chính trị" mới được.
- Có học trường chiến
tranh chính trị ngày nào đâu mà đ̣i...chiến tranh chính trị anh?
Người phi công
chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
- Từ từ
để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là...có là không, không là có. Bây giờ
chưa có phi tuần th́ ḿnh phải làm như có phi tuần. Ḿnh phải xuống ngay trên đầu
mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới th́ pháo nó mới câm được.-
Xong rồi.
Mặc dù vẫn c̣n ngán mấy chục họng pḥng không nhưng trong hoàn cảnh
này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu
rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh
tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn
nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây
mà né anh Ngọc th́ nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào.
Người đó c̣n ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều ǵ, anh sờ tay vô ngực
quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo.
Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói
ngay:
- Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng
em. Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm
đều kiếm ra một lư do ǵ đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn
th́ pḥng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đă nằm ngay dưới
cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn ṿng chung quanh cây pháo. Đúng y như
anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống
mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua
được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được
mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên
thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ
đang "tùng thiết" đi vô chăng? Dĩ nhiên pḥng không giặc bây giờ đổi mục
tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt
nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn
nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng
tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc
gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ
mày.
Tức quá mà không làm ǵ được th́...chửi cho đă tức. Chúng tôi chỉ
có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi ǵ được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ
có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với
chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh Trị, đây Bạch
Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu
đó bạn.
- Có sao không bạn?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới
đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc c̣n "tới" lắm bạn ơi. Tụi
nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp
lắm.
- Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
- Bạn
ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130
ly quái ác vẫn đ́ dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc.
-
Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra....
- Ờ, may ra....
Tôi
làm ṿng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp c̣. Oành cái Rocket nổ...gần cây đại
pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào
đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính
cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu
trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe
lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó...đáng
yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức
mạnh, của t́nh chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần
khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh Trị, đây Bạch ưng
-
Nghe bạn 5.
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh
đâu?
- Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
- OK! Roll
Phi tuần
khu trục vừa xuất hiện th́ cả bầu trời biến thành một biển lửa.
Số lượng pḥng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng ḍm hướng nào
cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đă về chiều nên những viên đạn
lửa bay vút lên cao càng được thấy rơ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào
xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo pḥng không v́ trời
quá xấu. Những đám mây...phản quốc, khốn nạn vẫn ch́nh ́nh khắp nơi.
Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những
loạt đạn pḥng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb,
rồi kéo lên. C̣n 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 "để" vào ngay trên ổ súng chính
xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều
tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng
dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn th́ tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch ưng,
đây Thạnh Trị
- Nghe 5 bạn
- Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập
rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
- Bạn nhớ giữ liên lạc
với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với
mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang
bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất
là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over
run" Dakseang trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM,
Anh Ngọc cẩn thận dặn ḍ thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang
bị bóp...dái th́ cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi ph́ cười, ông đại
úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được
v́ ḥ hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh
Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ
sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới
đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
-
Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi
bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục.
Hai chiếc khu trục A-1 c̣n mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn
nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như
kiến bạn ơi.
- C̣n phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng
vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. T́nh h́nh lúc này đă
bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc pḥng tuyến
đă bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân "TTHQ" thêm
ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
- Tao c̣n
lạ ǵ cái tṛ này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải
cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gă trên
trời và dưới đất nghe loạn cào cào.. Bởi trong những tiếng ồn ào
đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận
răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm ṿng chờ ở khoảng
20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống
làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đă đẹp, mấy ông Tây đánh cũng
không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để
những trái bomb thật chính xác. Pḥng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua
ǵ với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành th́ tôi nghe tiếng gọi từ dưói
đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ
hốt hoảng mà b́nh tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn
5, cho biết t́nh h́nh đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong
đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy ḿnh, chỉ hy vọng là ḿnh nghe... lộn.
Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới
đất xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh
xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?
- Đúng
5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết
chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa?
Giọng nói dưới
đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:
- Không c̣n lựa chọn nào khác bạn
ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"
mà bạn...
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn
Dakseang "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về
xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn
Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết quả. Chúng tôi gọi muốn đứt
hơi nhưng không c̣n liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở
lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải...
cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề
rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người
phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối
không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on
it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến
thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang
chứng kiến một h́nh ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên
được. Tôi biết nói ǵ lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa
Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ư nghĩ đều trở
thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng
5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ
và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần.
Làm sao c̣n có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương,
những máu của các anh hùng Dakseang đă tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn
lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt
đất. Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi
nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến
thuộc của các anh đâu biết người thân của ḿnh vừa anh dũng đền
nợ nước, vừa " Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn
trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để
cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ
trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ
được chít vội vă lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ
sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt
nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông
trời xanh thẩm? H́nh ảnh nào có thể thay thế được h́nh ảnh ngọt
ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời c̣n lại của những em bé hồn nhiên
vô tội kia hỡi ông trời? Dân tộc tôi đă làm ǵ nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu
nói nghe được từ thuở học tṛ bầy giờ mới thấy trọn nghĩa
ư đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan ḥa nước
mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nḥa, tôi chẳng c̣n
thấy ǵ, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây
oan khiên vừa rồi vẫn c̣n vần vũ như những chiếc khăn tang trắng
lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, c̣n sống chẳng chịu
giúp nhau, bây giờ người đă chết, đồn đă mất sao c̣n lảng vảng
để khóc thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đă thê lương cô quạnh
lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một
hợp đoàn tác chiến bay những ṿng tṛn thấp chung quanh đám đất đá điêu
tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan
dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng
tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng
ṿng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc,
giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
-
Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like
men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in
honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước
mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
-
Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt
rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đă
đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng
phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ
ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa
Kỳ đă tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ
cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đă bị tàn sát.
Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả
thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có
bao nhiêu thành Alamo c̣n tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu
năm chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước
khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đă cày
nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số
cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả c̣n Thạnh trị nào để
trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ c̣n là đống đất
vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ
mù. Tôi nh́n xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều
qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như
gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đă ngàn
thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài ṿng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm
ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giă để ra đi. "Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi". Thôi th́ xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh. Những
người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó
núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất,
như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính...âm
thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những
huyền thoại khủng khiệp, không "truyền thống, binh chủng" không có đến
những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa Phương
Quân Pleiku chiều hôm qua đă b́nh tỉnh xin "cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ
các anh đă đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống ḿnh để
đổi lấy cho quê hương dù đă rách nát tả tơi c̣n có được những
ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn c̣n được
an b́nh. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng c̣n rộn
tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi c̣n được
ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây
biết rằng ḿnh sống tức c̣n nợ phải trả.... Các anh chính là những người
được mô tả trong một bài học thuộc ḷng tôi thuộc làu làu lúc c̣n là một
đứa bé :
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động Dưới gót
giày của những kẻ xâm lăng Đă xông vào khói lửa quyết liều thân Để
bảo vệ tự do cho tổ quốc Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc Cười
hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan Người thất cơ đành thịt nát xương
tan Những kẻ sống ḷng son không biến chuyển Tuy tên họ không ghi trong sử
sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới
trời quên Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật Nhưng máu họ đă
len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và linh hồn
chung với tấm t́nh trung Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành
kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng
các anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt
Nam ngàn đời sẽ c̣n ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Trường
Sơn LÊ XUÂN NHỊ
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
|
|