LA CO CHINH NGHIA

ThaiDuong-Jupiters 530

| Home | Our Purpose | 530-List | 530-history | Stories/poems | Members Page | The Road | Picture Gallery | Links

 
LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA
 
GS Trần Gia Phụng

Lời người viết: Sau khi bài “Mặt trời không bao giờ lặn bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” được đăng trên báo và đưa lên web, có một độc giả tự xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho người viết và đưa ra hai câu hỏi: 1) Tại sao người viết nói rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất nước bị chia hai? 2) Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính nghĩa th́ người viết giải thích như thế nào về biến cố 1975? Xin cảm ơn anh du học sinh đă đặt câu hỏi. Sau đây là bài trả lời câu hỏi thứ nhất. Tôi sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trong số báo sau.

1.- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Năm 1945, sau thế chiến thứ hai, Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh (VM), một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), nhanh tay chiếm được chính quyền. Vua Bảo Đại (trị v́ 1925-1945) quyết định thoái vị và trao quyền lại cho mặt trận VM. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và ra mắt chính phủ lâm thời, chọn cờ của mặt trận VM là Cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.

Không đầy mười ngày sau, trung ương đảng CSĐD họp tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra chủ trương VM độc quyền cai trị đất nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.) [Về sau, đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục việc nầy qua điều 4 hiến pháp năm 1992.]

Để bảo đảm độc tôn quyền lực, về đối nội, VM thực hiện kế hoạch mà VM gọi là “giết tiềm lực” hay “tiêu diệt tiềm lực”, tức là tiêu diệt tất cả các đảng phái và tất cả các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả những người có khả năng nhưng không cộng tác với VM, có thể nguy hiểm cho VM hay trở thành đối thủ của VM trong tương lai.

Về đối ngoại, VM nhượng bộ các lực lượng nước ngoài để rảnh tay đối phó với các lực lượng đối kháng trong nước, nhằm duy tŕ việc độc quyền chính trị. Khi Pháp gởi lực lượng, theo quân Anh tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng, VM liên tục nhượng bộ. Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp buộc VM phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp. Hồ Chí Minh họp trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946. (Một nhóm tác giả, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.) Không thể để Pháp bắt và cũng không thể bỏ trốn nhục nhă, quyết định của hội nghị Vạn Phúc nhằm tạo cơ hội cho các nhà lănh đạo VM và đảng CSĐD thoát thân ra khỏi Hà Nội một cách chính thức. Thế là chiến tranh không tuyên chiến xảy ra.

Trong khi chiến tranh tiếp diễn, VM tiếp tục chủ trương “giết tiềm lực”. Trong các năm 1945, 1946, 1947 trên toàn quốc, VM giết khoảng 100,000 người ở tất cả các cấp từ trung ương xuống tới địa phương làng xă. Đứng đầu danh sách nầy là những nhân vật như Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử Anh …

V́ bản năng sinh tồn, những người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản phải trốn tránh, bỏ ra nước ngoài, hoặc phải đến sinh sống tại vùng do Pháp tái chiếm khi Pháp trở lại Đông Dương, hay chẳng đặng đừng cộng tác với Pháp để thành lập tổ chức hành chánh địa phương tạm thời do Pháp bảo trợ, chống lại VM.

Ở Nam Kỳ, chính phủ Cộng ḥa Lâm thời Nam Kỳ được thành lập tháng 6-1946, đổi thành chính phủ Nam Kỳ tự trị tháng 2-1947. Cũng trong tháng 2-1947, Pháp thành lập Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ tại Huế. Ra tới Hà Nội, Pháp thành lập Uỷ ban Lâm thời Hành chánh và Xă hội, c̣n được gọi là Hội đồng An dân tháng 5-1947. Tháng 10-1947, ông Nguyễn Văn Xuân, thiếu tướng trong quân đội Pháp, đă từng được Hồ Chí Minh cử làm quốc vụ khanh trong chính phủ VNDCCH ngày 2-9-1945, đứng ra thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ.

Việt Minh kết án chung tất cả các tổ chức nầy là Việt gian, tay sai thực dân Pháp. Tuy nhiên nếu những người nầy không hợp tác với Pháp để chống VM cộng sản, bảo toàn sinh mạng của chính họ, th́ không lẽ họ ngồi yên để chờ đợi VM tới bắt giết, như đă từng bắt giết Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi? Nếu Nguyễn Văn Xuân, một tướng lănh trong quân đội Pháp, là tay sai của thực dân Pháp, th́ tại sao Hồ Chí Minh lại cử làm quốc vụ khanh trong chính phủ của Hồ Chí Minh?

2.- CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ XUẤT HIỆN

Trong khi đó, trong một chuyến công du cho chính phủ VM qua Trung Hoa tháng 3-1946, theo lời cựu hoàng Bảo Đại, cố vấn chính phủ VM, ông bị phái đoàn VM bỏ rơi ở lại Côn Minh (Kunming) tháng 4-1946. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 242.) Cựu hoàng tự ư thức rằng VM bỏ rơi ông có nghĩa là VM không c̣n cần đến ông nữa, nên cựu hoàng bắt đầu tách ra khỏi chính phủ VM, qua trú ngụ ở Hồng Kông. Các lănh tụ trong các tổ chức hay đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc dần dần tập họp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, yêu cầu cựu hoàng ra cầm quyền trở lại, nhằm tranh đấu giành độc lập và thống nhất đất nước.

Về phía Pháp, sau một thời gian thương thuyết với VM nhưng thất bại, Pháp thay đổi chính sách từ tháng 9-1947, quay qua thương thuyết với cựu hoàng Bảo Đại để t́m một giải pháp mới. Cao uỷ Pháp tại Đông Dương là Émile Bollaert gặp cựu hoàng Bảo Đại trên một chiếc tàu thả neo ở vịnh Hạ Long ngày 6-12-1947. Hai bên đồng kư bản thông cáo chung theo đó Pháp hứa trao trả độc lập cho Việt Nam và ngược lại Việt Nam hứa sẽ cộng tác và ưu tiên sử dụng chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến thiết đất nước.

Sau cuộc nói chuyện sơ khởi trên đây, Bảo Đại qua Pháp tiếp tục vận động. Để tạo cơ chế hành chánh chung có thể nói chuyện với Pháp, khi trở về lại Hồng Kông, cựu hoàng uỷ cho Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân được Hội nghị các giới cầm quyền do Pháp bảo trợ và đại diện các đoàn thể, các đảng phái tại ba miền Bắc Trung, Nam Việt Nam, họp tại Sài G̣n ngày 20-5-1948, đồng ư ủng hộ làm thủ tướng.

Ngày 1-6-1948 Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam gồm đầy đủ đại diện Bắc, Trung và Nam Việt Nam. Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố “Pháp quy lâm thời” (Statut provisoire), quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ ở giữa, quốc ca là bài “Tiếng gọi sinh viên”, sau đổi là “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước.

Khi chuẩn bị lập chính phủ, Nguyễn Văn Xuân đă cho trưng cầu ư kiến về việc chọn quốc kỳ. Lúc đó có năm lá cờ được đề nghị để chọn làm quốc kỳ, gồm có ba lá cờ do uỷ ban đại diện ba miền Bắc, Trung và Nam phần đưa ra, và hai lá cờ do đại diện Phật Giáo Ḥa Hảo và đạo Cao Đài đề nghị. Cuối cùng lá cờ do đại diện miền Nam đề nghị được chấp thuận v́ có ư nghĩa nhất, lại không phức tạp, dễ thực hiện.

Quốc kỳ mới do thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố h́nh chữ nhật, chiều cao bằng hai phần ba chiều ngang, nền vàng giống như cờ của Trần Trọng Kim, nhưng thay v́ quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng nhau, chạy dài theo chiều ngang của lá cờ. Chiều cao chia thành 3 phần bằng nhau. Ở phần giữa, ba sọc đỏ nằm xen kẻ với hai sọc vàng, tất cả năm sọc đều bằng nhau.

Ngày 8-3-1949 cựu hoàng Bảo Đại kư với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định Élysée, tại Paris, theo đó chính phủ Pháp chính thức giải kết ḥa ước bảo hộ năm 1884, Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Sau những thủ tục pháp lư đưa Nam Kỳ, vốn là thuộc địa của Pháp, sáp nhập trở lại vào lănh thổ Việt Nam, nghĩa là đất nước được thống nhất, Bảo Đại trở về Việt Nam lập chính thể Quốc Gia Việt Nam do ông làm quốc trưởng cuối tháng 4-1949.

Lúc đó, trên đất nước Việt Nam có hai chính phủ. Chính phủ QGVN ở các thành phố và vùng nông thôn phụ cận. Chính phủ VNDCCH ở núi cao, rừng sâu và bưng biền. Khu vực cai trị của hai bên không có giới tuyến rơ rệt. Hai chính phủ theo hai đường lối hoàn toàn đối kháng nhau. Chính phủ QGVN chủ trương tự do dân chủ, đa đảng tuy có phần hạn chế v́ chiến tranh, và dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc. Chính phủ VNDCCH chủ trương độc tài toàn trị, độc đảng và dựa trên nền văn hóa Mác-xít. Hai chính phủ được tượng trưng bằng hai lá cờ cũng đối nghịch nhau: Cờ vàng ba sọc đỏ và Cờ đỏ sao vàng.

Về phía QGVN, do đặc trính tự do dân chủ, nhiều chính phủ kế tiếp nhau cầm quyền. Cuối cùng, năm 1954 quốc trưởng Bảo Đại cử Ngô Đ́nh Diệm lập chính phủ. Ngô Đ́nh Diệm chính thức chấp chánh từ ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). Hai tuần sau, hiệp định Genève được kư kết ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở sông Bến Hải (vĩ tuyến 17), VNDCCH ở phía bắc và QGVN ở phía nam.

Ông Diệm ổn định t́nh h́nh miền Nam, tổ chức trưng cầu dân ư ngày 23-10-1955, thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Ḥa do ông làm tổng thống ngày 26-10-1955. Quốc hội lập hiến được bầu ngày 4-3-1956, bàn chuyện thay đổi quốc kỳ và quốc ca, nhưng chưa có mẫu vẽ quốc kỳ mới nào ưng ư hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết nghị hoăn bàn, và vẫn giữ quốc kỳ như cũ. Sau đó Quốc hội mở cuộc thi vẽ quốc kỳ mới; có tất cả 350 mẫu cờ và 50 bài nhạc được đề nghị. Ngày 17-10-1956, Quốc hội lập hiến một lần nữa ra tuyên bố không chọn được mẫu quốc kỳ và bài hát nào hay đẹp và ư nghĩa hơn, nên quyết định giữ nguyên màu cờ và quốc ca cũ làm biểu tượng quốc gia.

Lá Cờ vàng ba sọc đỏ được miền Nam sử dụng cho đến năm 1975, khi cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn của Quốc tế cộng sản, cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30-4.

Như thế, lá Cờ vàng ba sọc đỏ đă xuất hiện từ năm 1948 trên toàn quốc, chứ không phải chỉ xuất hiện sau năm 1954, ở miền Nam Việt Nam sau khi đất nước bị chia hai. Lá Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn toàn đối nghịch với lá Cờ đỏ sao vàng chẳng những về màu sắc, nhưng quan trọng nhất đối nghịch cả về ư nghĩa chính trị. Một bên, Cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho tự do dân chủ và dân tộc; một bên, Cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho độc tài, đảng trị và quốc tế cộng sản.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 04-04-2009)

Lá Cờ Chính Nghĩa luôn luôn và măi măi bay cao

THế hệ 1.50
Thế hệ 2.00
Thế hệ 3.00

lacochinhnghia.jpg

GS Trần Gia Phụng

Lời người viết: Sau khi bài “Mặt trời không bao giờ lặn bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” được đăng trên báo và đưa lên web, có một độc giả tự xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho người viết và đưa ra hai câu hỏi: 1) Tại sao người viết nói rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất nước bị chia hai? 2) Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính nghĩa th́ người viết giải thích như thế nào về biến cố 1975? Xin cảm ơn anh du học sinh đă đặt câu hỏi. Tuần trước, tôi đă giải thích câu hỏi thứ nhất, trong số báo nầy, tôi xin trả lời câu hỏi số 2.

1.- BA MƯƠI THÁNG TƯ QUA THỜI GIAN

Ngày 30-4-1975 là ngày quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Tuy nhiên, qua thời gian, nhiều tài liệu về chiến tranh Việt Nam được tiết lộ, cho thấy sự thành bại giữa hai bên Việt Nam không phải do chính hai bên quyết định, mà do quyết định của những thế lực bên ngoài.

Chiến tranh ở Việt Nam tái diễn vào năm 1960 bắt nguồn từ quyết định của đại hội 3 của đảng Lao Động (LĐ) diễn ra vào đầu tháng 9-1960 tại Hà Nội. Trong đại hội nầy đảng LĐ chủ trương VNDCCH sẽ tấn công VNCH để thống nhất đất nước. Muốn tấn công Nam Việt, Bắc Việt phải một lần nữa cầu đến viện trợ của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) và Liên Xô cùng khối cộng sản. Không lẽ ngồi chờ chết, nên trong thế tự vệ, Nam Việt phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và Đồng minh để chống lại Bắc Việt.

Các cường quốc giúp đỡ hai phía Việt Nam đều có những mưu tính riêng tư về quyền lợi chính trị và kinh tế của họ. Liên Xô và CHNDTH muốn sử dụng Việt Nam để cầm chân Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, trong khi Liên Xô và CHNDTH bành trướng ở những vùng khác. Hoa Kỳ đến Việt Nam nói là để chận đứng làn sóng cộng sản đang có nguy cơ tràn xuống Đông Nam Á.

Sau một thời gian có mặt ở Việt Nam, Hoa Kỳ nhận ra rằng Hoa Kỳ cần phải rút ra khỏi Việt Nam để đổi lấy mối liên lạc với CHNDTH, phá vỡ thế liên kết giữa CHNDTH và Liên Xô. Từ đó Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân ra khỏi Việt Nam.

Dấu mốc quan trọng trong sự chuyển hướng chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1971 khi Hoa Kỳ không phủ quyết, để cho CHNDTH vào Liên Hiệp Quốc thay Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm viếng Bắc Kinh trong một tuần lễ từ 21-2-1972, mà Nixon cho rằng đây là một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới.(John S. Bowman chủ biên, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 190.) Cuộc viếng thăm kết thúc bằng thông cáo chung Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972 trong đó hai bên đều đối chọi nhau trong tất cả các điều khoản, trừ điều chót là hai bên đồng ư tôn trọng sự khác biệt của nhau.

Đặc biệt, ngày 2-6-1972, Henry Kissinger, bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ nói với Châu Ân Lai, thủ tướng CHNDTH trong một cuộc hội kiến tại Bắc Kinh rằng: “Nếu chúng tôi có thể sống với một chính quyền cộng sản ở Trung Quốc, chúng tôi cũng có thể chấp nhận chính quyền đó ở Đông Dương.” (Kissinger Papers: U.S. OK with takeover-Bostom.com.)

Xin chú ư cho rằng Kissinger tuyên bố chủ trương trên đây vào giữa năm 1972, trước khi Quốc hội Hoa Kỳ quyết định cắt giảm viện trợ cho VNCH. Do đó, việc làm của Quốc hội Hoa Kỳ, cắt giảm đến mức tối thiểu toàn bộ viện trợ Hoa Kỳ, cấm đưa quân đội ra nước ngoài, là phụ họa với chính sách của chính phủ Nixon, chứ không phải là khóa tay chính phủ Nixon.

Câu tuyên bố của Henry Kissinger về chủ trương mới của Hoa Kỳ, chấp nhận sống chung với một chế độ cộng sản ở Đông Dương, chính là lời tiên báo cái chết của VNCH, mà năm 1954 Hoa Kỳ gọi là tiền đồng chống Cộng trẹn thế giới, v́ sau đó, hiệp định Paris được kư kết, Mỹ rút quân, cắt viện trợ. Quân lực VNCH đang anh dũng chiến đấu và những tài liệu mới cho thấy đang chiến thắng, v́ thiếu tiếp liệu, thiếu đạn dược, đành buông súng. Chiến tranh chấm dứt.

Sơ lược như trên để thấy rằng lư do chính khiến chiến tranh Việt Nam nhanh chóng kết thúc v́ Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu và “thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.” (Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Vermont: Steerforth Press, 1996, tr. 336.). Như thế, biến cố 30-4-1975 chỉ là sự đổi chác quyền lợi giữa các cường quốc.

Đó là chuyện trước ngày 30-4-1975. Chuyện sau ngày 30-4-1975 th́ như thế nào? Theo CSVN, Bắc Việt tấn công Nam Việt là để giải phóng dân tộc ra khỏi ách thống trị của Mỹ ngụy. Giải phóng là cởi mở, từ t́nh trạng tù túng đến chỗ tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung sau năm 1975 được xem là một cái lồng lớn, nhốt dân chúng Việt Nam dưới chủ nghĩa cộng sản. Chế độ độc tài đảng trị lộng hành. Ở đâu cũng phải có hộ khẩu. Đi đâu ở trong nước cũng phải xin giấy phép. Đời sống lầm than, cơ cực.

Dân chúng vượt biên ra nước ngoài càng ngày càng nhiều. Các nước trên thế giới chỉ trích mạnh mẽ. Đảng LĐ đành phải đổi mới kinh tế. Dầu vậy, cho đến nay, hơn 30 năm sau ngày 30-4-1975, Việt Nam vẫn không có tự do tôn giáo, không có tự do chính trị, không có tự do báo chí… và chỉ có tự do tham nhũng, tự do đói nghèo, tự do đĩ điếm… Người dân muốn tỏ ḷng yêu nước cũng không được mà phải xin phép. Vậy cuộc giải phóng ngày 30-4-1975 là chuyện hoàn toàn phỉnh gạt.

Khẩu hiệu của CSVN để kêu gọi dân chúng nổi dậy là “chống Mỹ cứu nước”. Cộng sản Việt Nam chống Mỹ cứu nước cách sao mà ngày nay, ở Việt Nam, Mỹ đi đầy đường. Trước kia, Mỹ chỉ đi lại ở miền Nam, nhạc Mỹ, trường Mỹ rất ít. Ngày nay, nhờ đảng LĐ chống Mỹ cứu nước mà Mỹ đi tràn lan cả Nam lẫn Bắc, ra tận Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Ĺên Sơn, Sapa… Nhạc Mỹ đâu đâu cũng nghe, trường Mỹ mọc lên ở các thành phố lớn. Thật tội nghiệp cho biết bao nhiêu thanh niên ưu tú đă nằm xuống v́ câu khẩu hiệu giả dối của đảng LĐ.

Trong khi đó, cứu nước như thế nào mà năm 1979 sáu tỉnh biên giới phía bắc bị Trung Quốc tàn phá, rồi phải kư hiệp định nhượng đất năm 1999 và nhượng biển năm 2000. Chẳng những thế, các hải đảo bị lấn chiếm từ từ mà vẫn cúi đầu mời Trung Quốc vào Cao nguyên Nam Trung phần để khai thác bauxite. Vậy cứu nước hay bán nước?

Một cuộc chiến thắng chỉ thật sự có ư nghĩa và chính nghĩa khi chiến thắng đó đem lại đời sống hạnh phúc ấm no cho toàn dân. Đàng nầy, biến cố 30-4-1975 chỉ đem lại độc tài, áp bức, tham nhũng,, bất công, tù đày, chà đạp nhân quyền và dân quyền của dân chúng Việt Nam.

Như thế, ngày 30-4-1975, nói là ngày chiến thắng của VNDCCH, cũng là ngày lộng hành của phe xấu, nói như thượng nghị sĩ Mc Cain (tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ) giữa thành phố Sài G̣n năm 2000 rằng trong cuộc chiến vừa qua, phe xấu đă chiến thắng. Đó là lư do v́ sao lá cờ chính nghĩa, Cờ vàng ba sọc đỏ tạm thời lui bước.

4.- CHÍNH NGHĨA TẤT THẮNG

Sau biến cố 30-4-1975, lúc đầu khoảng trên 100,000 người ra đi ngay khi cộng sản cầm quyền. Dần dần con số nầy tăng lên, tăng lên măi làm cho cả thế giới bàng hoàng. Các trại tỵ nạn được thành lập, các nước tự do mở cửa đón người tỵ nạn. Người ta bắt đầu đánh giá lại các biến chuyển ở Việt Nam, đánh giá lại các chế độ cộng sản. Phải chăng v́ vậy các nước Tây Âu và Hoa Kỳ thêm phần ủng hộ các phong trào đối kháng cộng sản ở Đông Âu, đưa đến sự sụp đổ đế quốc Liên Xô trong các năm từ cuối năm 1989 đến năm 1991?

Cao điểm của việc đánh giá lại các chế độ cộng sản là nghị quyết 1481 ngày 25-01-2006 của Quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp), lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ cộng sản toàn trị đă vi phạm nhân quyền tập thể. Điều 2 của nghị quyết nầy ghi rằng” “Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn c̣n cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sựï vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những h́nh thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đăi v́ chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay hẳn nhiên nằm trong điều 2 của nghị quyết 1481.

Trong khi đó, người Việt tỵ nạn tại các nước trên thế giới dần dần thành công, và tập họp thành những cộng đồng càng ngày càng lớn mạnh. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn đều chọn lá Cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng. Riêng tại Hoa Kỳ, chính quyền nhiều thành phố và tiểu bang công bố quyết định công nhận lá Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng chính thức của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, bắt đầu từ thành phố Westminster ở tiểu bang California với nghị quyết số 3750, ngày 19-2-2003.

Vào cuối tháng 3-2009, tại tiểu bang Massachusetts, hạ viện (với số phiếu 145-0) và thượng viện (với số phiếu 37-0) vừa thông qua nghị quyết số H 3415 gồm nhiều điều khoản khác nhau, trong đó có điều khoản cấm treo cờ đỏ CSVN, được tạm dịch như sau: “CẤM TREO CỜ BẮC VIỆT - Nghị Quyết chỉ định lá cờ cũ Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là lá cờ duy nhất đại diện cho quốc gia Việt Nam có thể dùng để treo trong các buổi sinh hoạt công cộng do Tiểu Bang bảo trợ hay được treo ở các cơ sở Giáo Dục công cộng . Theo các nhà yểm trợ nhận định là Cờ Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là biểu tượng của sự Quật Cường, Nhân Ái và Dân Chủ từ năm 1954 cho tới khi đất nước rơi vào tay CSVN năm 1975 . Hơn nữa cờ CSVN là lá cờ chủ nghĩa CSVN mang tính đàn áp, kích động tinh thần người Mỹ Gốc Việt nên không thể dùng để treo trong các buổi sinh hoạt công cộng. (http://www.Vietland.net ngày 2-4-2009).

Điều đặc biệt của nghị quyết nầy là chẳng những vinh danh Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng, của sự quật cường nhân ái và dân chủ, mà c̣n lên án rằng Cờ đỏ sao vàng mang tính đàn áp, không thể dùng được. Massachusetts là tiểu bang diễn ra những cuộc biểu t́nh phản chiến mạnh mẽ trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam trước năm 1975, và là tiểu bang nhà hiện nay của hai thượng nghị sĩ liên bang nổi tiếng cấp tiến là E. Kennedy và J. Kerry. V́ vậy nghị quyết H 3415 do quốc hội tiểu bang nầy thông qua không thể chỉ xem là để công nhận lá cờ của Cộng đồng người Việt ở Massachusetts, mà c̣n chứng tỏ một sự chuyển hướng nhận thức của người Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam vừa qua và với chế độ cộng sản hiện nay ở trong nước.

Tin mới nhất, ngày 7-4-2009, thống đốc tiểu bang Virginia chính thức kư tên và công bố nghị quyết 275, chọn ngày 11 tháng 5 là NGÀY NHÂN QUYỀN VIỆT NAM để yểm trợ phong trào tranh đấu đ̣i hỏi nhân quyền ở Việt Nam. Khi chọn một ngày nhân quyền cho Việt Nam cần được hiểu là Việt Nam hiện nay thiếu nhân quyền nên mới có việc chọn ngày nhân quyền để cổ vơ, vận động nhân quyền cho Việt Nam. Được biết rằng trước đây, ngày 15-04-2004 tiểu bang Virgina đă công bố luật 1457 ER công nhận Cờ vàng ba sọc đỏ là cờ của cộng đồng Việt Nam tại tiểu bang Virginia. Chăc chắn nghị quyết mới, tức nghị quyết 275 ngày 7-4-2009 sẽ dần dần lan qua các tiểu bang khác như trước đây các tiểu bang Hoa Kỳ nối tiếp nhau công nhận Cờ vàng ba sọc đỏ là cờ Cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Như thế, đúng là ngày 30-4-1975, bạo quyền Hà Nội đă thắng trận, nhưng thắng một trận không có nghĩa là thắng cuộc chiến, v́ cuộc chiến quốc-cộng ở Việt Nam vẫn tiếp tục dưới một h́nh thái khác không vơ trang. Tất cả những diễn tiến ở trong nước và trên thế gới cho thấy từ sau ngày 30-4-1975, bạo quyền Hà Nội dần dần thất bại trong ḥa b́nh. Mất hậu thuẫn của dân chúng, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội phải dựa vào ngoại bang để sống c̣n. Từ đó mới đưa đến các vụ nhượng đất, nhượng biển, nhượng đảo và vụ bauxite ở Tây nguyên (cao nguyên Nam Trung phần). Càng ngày nhà cầm quyền Hà Nội càng lún sâu vào tội lỗi phản dân hại nước.

Trong khi đó, chính nghĩa tự do dân chủ tạm thời thất thế trước bạo quyền ngày 30-4-1975, nhưng cuối cùng chính nghĩa luôn luôn sống măi với ḷng người và chính nghĩa dần dần chiếm lại ưu thế. Nhà cầm quyền Hà Nội càng phản dân hại nước, chính nghĩa tự do dân chủ càng sáng ra càng được mọi người trân trọng quư mến.

Các chế độ độc tài hung bạo như Hitler, Stalin trên thế giới cuối cùng phải cáo chung. Chắc chắn, một lúc nào đó chế độ cộng sản độc tài toàn trị cũng sẽ phải cáo chung ở Việt Nam, như đă từng cáo chung ở Liên Xô. Lá Cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho chính nghĩa dân tộc, cho nhân ái, tự do, dân chủ sẽ trở về tung bay dưới bầu trời quê hương Việt Nam ngàn đời yêu dấu.

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 12-4-2009)
KÍNH MỜI ĐỒNG HƯƠNG THAM DỰ LỄ THƯỢNG KỲ QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN TỔ CHỨC TỪ 10 SÁNG CHỦ NHẬT 03-05-2009 TẠI TORONTO CITY HALL.


---
This article comes from Cánh Thép
http://www.canhthep.com

MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN
BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ

Trần Gia Phụng

Hiện nay, người Việt hải ngoại sống rải rác khắp các nơi trên thế giới. Không kể dân số trong nước, người Việt hải ngoại ít nhất cũng gần 3 triệu người. Riêng tại thành phố Toronto và vùng phụ cận khoảng 80,000 người. Ở khắp mọi nơi, người Việt họp thành những cộng đồng đang càng ngày càng lớn mạnh. Mỗi cộng đồng đều có một biểu tượng riêng. Nh́n vào biểu tượng đó, người ta biết nguồn gốc, văn hóa, căn tính của mỗi cộng đồng. Ngược lại, từ nguồn gốc, văn hóa của cộng đồng, người ta cần t́m một mẫu số chung để chọn biểu tượng cho cộng đồng. Vậy mẫu số chung để có thể trở thành biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại hiện nay là ǵ?

Trước hết, cộng đồng người Việt hải ngoại gồm có các thành phần sau đây: 1) Những người ra đi trước biến cố 30-4-1975. 2) Những người vượt biên sau biến cố 30-4-1975. 3) Những người được bảo lănh. 4) Những người xuất khẩu lao động.

Trước năm 1975, hai đợt người ra đi chính: Đợt thứ nhất gồm những người do nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương tuyển mộ và đưa sang Pháp từ năm 1915 đến năm 1919, khoảng 100,000 người trong đó khoảng một nửa là lính chiến đấu, một nửa là lính thợ (ouvrier non spécialisé gọi tắt là ONS). (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận tập 3, Paris: Nxb. Tân Á, 2002, tr. 1673.) Sau thế chiến thứ nhất, một số trở về và đa số ở lại Pháp. Đợt thứ hai là những du học sinh từ năm 1949 đến năm 1975, không phải chỉ đi Pháp mà c̣n đến các nước khác trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Úc, New Zealand…Khi xảy ra biến cố 30-4-1975, hầu hết đều ở lại nước ngoài.

Sau biến cố 30-4-1975, nhiều người vượt biên tỵ nạn cộng sản bằng đường biển hay bằng đường bộ. Cuộc vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1995, có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 1975 đến 1989 là năm Cao uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn. Giai đoạn thứ hai từ 1989 đến 1995. Từ năm 1996, CUTNLHQ đóng cửa vĩnh viễn các trại tỵ nạn. Cuộc vượt biên trong giai đoạn thứ hai khó khăn hơn v́ phải trải qua “thanh lọc” tư cách tỵ nạn, mới được nhận đi định cư. Tổng số người vượt biên đến định cư được ở nước ngoài lên đến gần 1 triệu người và số người tử nạn trên đường vượt biên, không đến được miền đất tự do, khoảng 500,000 người. (Các số liệu nầy theo Người Việt Online ngày 28-10-2004.)

Những người vượt biên, một khi đă ổn định cuộc sống ở một nước khác, bắt đầu bảo lănh thân nhân ra nước ngoài. Đó là những người ra đi theo chương tŕnh O.D.P. (Orderly Departure Program). Ngoài ra, c̣n có một số khá lớn những người đi theo chương tŕnh HO là chữ mà người Việt thường dùng để gọi chương tŕnh The Special Released Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương tŕnh đặc biệt tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích), bắt đầu từ năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho các nhân viên và quân nhân chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa bị ba năm tù cộng sản trở lên và gia đ́nh, tái định cư tại Hoa Kỳ.

Cuối cùng, cộng đồng người Việt hải ngoại c̣n có những sinh viên du học hay công nhân xuất khẩu lao động qua Liên Xô và Đông Âu, xin tỵ nạn ở các nước ngoài khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1991. Số liệu trong nước cho biết số nầy lên đến 300,000 người. Sau đó, nhiều người trong số nầy t́m cách chuyển qua sinh sống ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Như vậy, dù ra đi trước năm 1975, dù vượt biên sau năm 1975, dù bảo lănh, HO hay xuất khẩu lao động, người Việt ở hải ngoại nói chung đều là những người không muốn sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam, ra nước ngoài để t́m một đời sống tự do mới ở nước ngoài, có thể nói chung là những người tỵ nạn cộng sản hoặc bất đồng với chế độ cộng sản. Nếu không bất đồng với chế độ cộng sản, th́ người ta đă về nước sinh sống sau năm 1975, khi đất nước do chế độ cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần lưu ư là sau năm 1975, nếu có người nào nói rằng vượt biên hay ra nước ngoài v́ lư do kinh tế, th́ chắc chắn Cao uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đă trả người đó về Việt Nam, hoặc chính các nước bảo trợ cũng không chấp nhận cho đến tỵ nạn kinh tế.

Tuy nhiên, giả thiết như, xin nhấn mạnh chỉ giả thiết mà thôi, có một người can đảm tự nhận ra đi v́ lư do kinh tế, có nghĩa là chế độ cộng sản ở trong nước không tạo được điều kiện để cho người đó sinh sống, hay nói cách khác người đó hoặc bất đồng với chế độ cộng sản, hoặc là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản, nên mới kiếm cách bỏ ra nước ngoài sinh sống. Vậy người đó không phải là nạn nhân chính trị, th́ cũng có thể xem là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản.

Như thế, có thể nói tính chất chung của người Việt hải ngoại là những người tỵ nạn cộng sản, dù ra đi từ Bắc hay Nam Việt Nam, dù trước hay sau năm 1975, dù vượt biên hay bảo lănh, dù là v́ lư do chính trị hay lư do kinh tế. Vậy biểu tượng chung cho người Việt hải ngoại, dầu ra nước ngoài v́ bất cứ lư do nào, chắc chắn không phải là lá Cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của chế độ đă gây ra cảnh tỵ nạn.

Trên thế giới, lá Cờ đỏ sao vàng chỉ được treo trong các ṭa đại sứ hay lănh sự Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN). Các ṭa đại sứ hay lănh sự CHXHCNVN ở hải ngoại nói cho cùng chỉ đại diện cho nhà cầm quyền Hà Nội, phụ trách công việc giao dịch của chế độ cộng sản, chứ chẳng phải là đại diện cho người Việt ở hải ngoại. Hiện nay chế độ CHXHCNVN hầu như không có hay có rất ít công dân ở hải ngoại. Đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đều là những người tỵ nạn cộng sản, trốn tránh cộng sản như trốn tránh ác quỷ, và người Việt hải ngoại đều đă nhập quốc tịch các nước sở tại, tức là công dân các nước ngoài, chẳng cần ǵ đến sự giúp đỡ của các ṭa đại sứ hay lănh sự CHXHCNVN.

Ví dụ một người gốc Việt, có quốc tịch Canada hay Hoa Kỳ, tức công dân của hai nước nầy, đi du lịch, làm ăn buôn bán tại các nước trên thế giới, nếu có vấn đề ǵ trở ngại hay tai nạn nào, th́ ṭa đại sứ các nước nầy sẽ can thiệp, giúp đỡ hay bênh vực cho công dân của ḿnh, chứ đâu cần đến ṭa đại sứ cộng sản Việt Nam.

Tại ṭa đại sứ CSVN, thỉnh thoảng có người đến làm giấy tờ xin đi Việt Nam, không phải với tư cách công dân Việt xin về nước, mà với tư cách công dân nước ngoài đến liên lạc với ṭa đại sứ của nước mà người đó muốn đi du lịch mà thôi. Cũng giống như chúng ta muốn du lịch các nước Âu Châu hay Nam Mỹ, chúng ta phải đến liên lạc với ṭa đại sứ các nước nầy.

Lá cờ tượng trưng cho những người tỵ nạn cộng sản, dù là tỵ nạn chính trị hay tỵ nạn kinh tế, không ǵ khác hơn là biểu tượng của những nạn nhân cộng sản. Thích hợp nhất cho biểu tượng nầy chính là lá Cờ vàng ba sọc đỏ, v́ lá cờ nầy đă từng là lá cờ trên toàn cơi Việt Nam, cả Bắc và Nam Việt Nam từ năm 1948, chứ không phải riêng của miền Nam sau năm 1954, và lá cờ nầy cũng là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam.

Hiện nay, nơi nào có cộng đồng người Việt, th́ nơi đó có lá Cờ vàng ba sọc đỏ tung bay. Cộng đồng người Việt sinh sống khắp nơi trên thế giới, bao quanh quả địa cầu. Suốt ngày (24/24), không chỗ nầy th́ chỗ khác, ṿng quanh quả đất, khi nào cũng có lá Cờ vàng ba sọc đỏ phất phới dưới ánh mặt trời. Như thế, thực tế cho thấy rằng mặt trời tỏa sáng quanh năm trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ, nếu chúng ta không quá hănh tiến để nói rằng MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 24-3-2009)

Lá Cờ Thấm Máu Phục Quốc Quân
Triều Giang


Lá cờ thấm máu phục quốc quân

Thư viện/Bảo tàng viện Lyndon Johnson đă nhận được một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà do gia đ́nh ông Lộc Nguyễn, một người Mỹ gốc Việt đang sinh sống tại Austin gửi tặng. Lá cờ vàng 3 sọc đỏ được làm bằng loại vải mềm. có màu vàng lạt hơn những lá cờ khác v́ thời gian. Trên lá cờ c̣n có những vệt máu thâm đen.

Theo ông Lộc Nguyễn, th́ đây là cờ được treo trên đỉnh của một tiền đồn tại tỉnh Đà Nẵng cho đến giờ cuối cùng trước khi tiền đồn bị thất thủ vào tháng 3 năm 1975. V́ lư do bảo mật để tránh sự nguy hiểm cho một số người liên hệ c̣n đang sống tại VN, ông Lộc không thể nói rơ hơn về địa điểm của tiền đồn cũng như tên tuổi của những người liên hệ. Cha ông, vị sĩ quan chỉ huy tiền đồn đă không chịu đầu hàng. Ông và một số binh sĩ của ông đă trốn vào rừng để tiếp tục chiến đấu. Ông đă mang lá cờ này theo toán phục quốc quân vào trong rừng. Từ tháng 3 năm 1975 cho tới năm 1978, lá cờ này đă theo toán phục quốc quân ẩn sâu trong rừng. Khi liên hệ được với người liên lạc là mẹ ông Lộc, cha ông đă gửi gấm cho mẹ ông lá cờ với lời nhắn nhủ người con trai duy nhất trong gia đ́nh rằng; ông Lộc hăy ǵn giữ lá cờ máu này và hăy t́m mọi cách để đưa lá cờ ra khỏi VN để nói cho toàn thế giới biết về sự đau thương của VN dưới sự cai trị hà khắc của CS, và sự chiến đấu quyết không đầu hàng của những chiến sĩ phục quốc quân.

Do đó, từ năm 1978 tới năm 1994, lá cờ đă được giầu dưới giường của mẹ ông Lộc. Trước khi chết, mẹ của ông Lộc đă cho con trai biết về lai lịch lá cờ và cái chết của người cha. Cũng theo lời trăn trối của mẹ ông Lộc, cha ông cho bà biết vết máu trên lá cờ là của một trong những chiến sĩ phục quốc quân. Bà không hỏi rơ là vết máu cuả chiến sĩ phục quốc từ vết thương trong một trận giao tranh hay là do bị thương trong lúc leo lên cột cờ để hạ lá cờ xuống trước khi đem vào rừng cùng với toán quân.

Cái chết tức tưởi của một phục quốc quân với lời trăn trối:
Dùng lá cờ để nới lên chính nghiă của Nam VN

Toán quân sau đó đă bị theo dơi và bị bắt vào năm 1982. Cha ông Lộc đă vào tù cùng với các chiến hữu của ông, nhưng lá cờ có thấm máu của người chiến sĩ phục quốc đă được con trai ông vâng lời cha, trong một chuyến về thăm VN, bất chấp nguy hiểm, ông Lộc đă bí mật chuyển sang Mỹ vào năm 1998.

Mẹ ông Lộc không được biết những ǵ xảy ra sau đó cho những chiến sĩ phục quốc quân, kể cả ngày chết cuả chồng. Ông Lộc cho biết từ kh́ cha ông bị bắt vào năm 1982, mẹ ông hàng tháng đi thăm nuôi, nhưng không bao giờ đưọc gặp chồng. Mỗi khi đến trại tù, những người cai quản trại tù bảo bà đưa đồ tiếp tế cho họ để họ chuyển cho chồng bà và bà ra về. Bà đă đi thăm nuôi chồng trong tăm tối như thế trong suốt 7 năm trời. Măi đến năm 1989, một người quen cùng trong trại tù với chồng bà đă nhắn cho bà biết chồng bà đă bị đánh đập và bị hành hạ cho tới chết trong tù đă nhiều năm qua. Lúc đó, người chỉ huy của toán phục quốc quân này đang ở tuổi trên 60 và ông đă chiến đấu trên 30 năm cho lư tưởng tự do, dân chủ của đất nước, dân tộc.

Năm 2004, qua sự giới thiệu của người bạn là một cựu chiến binh Mỹ, ông Patrick Reily, ông Lộc đă tặng lá cờ cho Thư viện Lyndon Johnson với ước nguyện hoàn thành được lời trăn trối cuối cùng của người cha. Đó là dùng lá cờ để nói cho cả thế giói biết đến sự hà khắc của chế độ CSVN và sự chiến đầu anh dũng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lộc Nguyễn hiện lập gia đ́nh với bà Thu Minh Nguyễn và có 3 người con gái và một con trai. Ông bà đă xin phép cho các con nghỉ học một buổi để các cháu có thể được nh́n lá cờ mà ông bà nội cuả các cháu đă dùng mạng sống cuả họ để ǵn giữ nó.

Hiện Viện Bảo tàng Lyndon Johnson chưa có chưong tŕnh trưng bày lá cờ này trước công chúng, nhưng nếu có khách thăm viếng yêu cầu, thư viện sẽ đưa ra để cho khách được chiêm ngưỡng. Để tiện việc sắp xếp, xin gọi điện thoại trước cho quản thủ thư viện đang có trách nhiệm ǵn giữ lá cờ, ông Michael Mc. Donald, điện thoại số: (512) 721-0199. Hoặc Email về địa chi: michael.macdonald@nara.gov.
(Trieu Giang)

Subject: Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản. Print to printer
Author: banglang  
 
Hay truyện người lính nhỏ mà chính khí lớn Vũ Tiến Quang.
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại Sỹ.
(Trích trong bộ Lịch-sử Thiếu-sinh-quân Việt-Nam)

Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên-hưng, tỉnh Chương-thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, hạ sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh-Chi mới tṛn một năm. V́ có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương-thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư kư ṭa hành chánh. Nhờ đồng lương thư kư, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung b́nh trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến-sĩ cộng-ḥa có đăng bài:
“Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ sữa Trần Minh, Thiên-thần U-minh hạ”.

Bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu-sinh-quân Việt-Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc-thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 bộ binh). Mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương-thiện. Quang nảy ra ư đi t́m người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu-sinh-quân. Quang suưt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ : Ḿnh phải như anh Minh.

Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho ḿnh nhập học trường Thiếu-sinh-quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, v́ Quang là con một, mà nhập học Thiếu-sinh-quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh th́… nguy lắm. Bà không đồng ư. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu-sinh-quân th́ cha phải thuộc chủ lực quân, c̣n cha Quang là địa phương quân th́ không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là quốc gia nghĩa tử th́ ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu-sinh-quân, th́ tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đ́nh, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.

Chiều hôm ấy Quang t́m đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu-sinh-quân. Đă không giúp bà Đức th́ chớ, Minh c̣n đi cùng Quang tới nhà bà,hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến pḥng 3, tiểu khu Chương-thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong pḥng 3 tiểu khu, có trung sĩ 1 Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu-sinh-quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ư, th́ ḿnh sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, tiểu khu trưởng tŕnh bầy trường hợp của Quang. Thiếu-tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng-tham-mưu dành ưu tiên cho Quang.

Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu-sinh-quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng-tầu tŕnh diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu-sinh-quân Việt-Nam.

Quả thực trường Thiếu-sinh-quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. C̣n học văn hóa th́ Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh-văn. Trong lớp, môn Anh-văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đă có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.

Giáo-sư Việt-văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút ḷng son vào thanh sử).

Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài-văn vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu-sinh-quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm-tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo-nghĩa vương Trần B́nh Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hăi, lại c̣n tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.

Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang t́m đến các đàn anh trấn đóng tại Chương-thiện để tŕnh diện. Quang được các cựu Thiếu-sinh-quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng-tham-mưu Việt-Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu truyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt-Nam gọi là Mùa hè đỏ lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đă đỗ chứng chỉ 1 Bộ-binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu-sinh-quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoăn, các ông chiều… cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.

Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ-pḥng, thuộc Cà-mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu-úy cựu Thiếu sinh quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu-úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống th́ hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.

Trung đội tiến vào trong làng th́ lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U-minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút th́ Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai th́ Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng vơ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng vơ trang. V́ được học địa h́nh, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng vơ trang nă vào pḥng tuyến địch, coi như Hummer c̣n sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ c̣n khoảng cách 20-30 thước.

Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt-Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, th́ chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân ḿnh 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu-sinh-quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt t́nh thân hữu, đă đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào pḥng tuyến địch, dù cách ḿnh 20 thước. Quang đă được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng vơ trang nă vào trận địch, nhiều rocket (Hỏa-tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân ḿnh, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.

Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hơm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không th́ Quang đă ô-hô ai tai rồi. Viên thứ bẩy trúng… chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không th́ Quang thành thái giám.

Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11:15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?

V́ được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng ḿnh là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa-kỳ cho Quang. Bấy giờ mới ḷi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu-sinh-quân đă uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

Đúng ra theo Quân-luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra ṭa v́ “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính t́nh phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt.

Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu-sinh-quân Việt-Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật: Cần-thơ, Sóc-trăng, Bạc-liêu, Cà-mau, Chương-thiện. Quang trở thành người hùng lư tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !

Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 bộ binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 bộ binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc-thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đă thành sự thực.

Trung-đoàn 31 bộ binh đóng tại Chương-thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương-thiện là Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu-tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu-sinh-quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu-sinh-quân cao niên nhất vùng Chương-thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu-sinh-quân trong tiểu đoàn 2/31 dẫn Quang đến tŕnh diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất cả tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.

Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, th́ mày thuộc loại ḿnh đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt-cộng th́ không đau. Nhưng vuốt anh cấu th́ đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U-minh thượng… Th́ vuốt của anh phải sắc lắm.
- Hồi đó suưt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
- Nếu khi ra trận anh sợ th́ em mới sợ. Cái ḷ Thiếu-sinh-quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đă tŕnh diện anh Thời chưa?
- Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.


Thiếu-tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, th́ quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu-sinh-quân th́ lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.

Bấy giờ tin Trần Minh đă đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lư tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.

Tại sư đoàn 21 bộ binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu-sinh-quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đă quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa tŕnh diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui ḷng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!

Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới-lai, Cờ-đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây-đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật-bản không muốn về nước, trốn lại Việt-Nam… huấn luyện. Quang đă được Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây-đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần-thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, th́ chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, th́ chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, th́ sẽ dẵm phải ḿn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. V́ vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, th́ dùng vũ khí cộng đồng nă vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, th́ tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. C̣n như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.

Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đă tấn công vào trong làng. Vừa tới b́a làng, thiếu-úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, th́ phi pháo không can thiệp được nữa, v́ quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhậnvị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
- Lát nữa khi chúng xung phong th́ dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hăy bắn trả.

Sau gần 20 phút, th́nh ĺnh địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại-liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ pḥng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, v́ bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh ḅ lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.

Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Th́ ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần-thơ. Trong đó viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh-dũng bội tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng ṿng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần-thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương-thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần-thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đ́nh đính ước với nhau. Họ cùng đồng ư: Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, th́ cho cưới nhau.
Nhưng mối t́nh đó đă đi vào lịch sử…

T́nh h́nh toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban-mê-thuột bị mất, Quân-đoàn 2 rút lui khỏi Cao-nguyên, rồi Quân-đoàn 1 bỏ mất lănh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng tham mưu được Hoa-kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ c̣n mười người. Tiểu-đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đ́nh. Quang vào bộ chỉ huy tiểu-khu Chương-thiện tŕnh diện Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt-Nam Cộng-ḥa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đ́nh. Một vài đơn vị lẻ lẻ c̣n cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-g̣n ngừng lúc 9 giờ 7 phút.

Đúng lúc đó tai Chương-thiện, tỉnh-trưởng kiêm Tiểu-khu trưởng là đại-tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng-quân. Phần thắng đă nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ c̣n tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
- “Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng-tư-lệnh. Hăy tiếp tục chiến đấu”.

Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, v́ quân ít, v́ hết đạn v́ mất tinh thần. Chỉ c̣n lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy Tiểu-khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ tham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, th́ đạn hết, làn sóng Cộng-quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ c̣n một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng-sản vào hầm lôi ra hai người. Một là đại-tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.

Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại-tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương thiện hỏi:
- Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?

Đại-tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt. Trung sĩ Quang chỉ đại-tá Cẩn:
- Thưa Đại-tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. V́ anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, th́ tôi không thể căi lệnh.

Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với đại-tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.

Đại-tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
- Đại-tá có lư tưởng của đại-tá, tôi có lư tưởng của tôi. Đại-tá theo Karl Marx, theo Lénine; c̣n tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lư tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt-cộng. Tại sao đại-tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?

Viên đại-tá rút súng kề vào đầu Quang:
- Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ th́ mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai th́ người đó có lư. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu-sinh-quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại-tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, c̣n đại-tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài-văn vương Trần Quốc Toản mà.
- Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa th́ tôi không thể là ngụy. C̣n Cộng-quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo-nghĩa vương Trần B́nh Trọng, như Nguyễn Biểu.

Quang cười nghạo nghễ:
- Nếu đại-tá có chính nghĩa tại sao đại-tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao th́ mày tao. Đ.M. tên Cộng-sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M. Mày có nhận mày là tên Việt-cộng không? Th́ mày trả lời sao?


Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngă bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên c̣n nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ư nghĩa nụ cười đó là nụ cười ǵ? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cườ́ đó mang ư nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa măn?

(Ghi chú:)
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học tṛ của tôi, cư trú tại Marseille.

Cái lúc mà Quang ngă xuống, th́ trong đám đông dân chúng ṭ ṃ đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh-Chi đă thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh-Chi, trở về Cần-thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, th́ thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh-Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.

Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaçeutique). Tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh-Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-g̣n, chúng tôi thuê xe đi Chương-thiện, t́m lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dăi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đă t́m ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền th́ mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên-hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lăng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái ḥm. Bodoret hoan hô ư kiến của sư phụ.

Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:

“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa măn v́ thực hiện được giấc mộng”

Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu-sinh-quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng ngườ́ ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa măn nở nụ cười v́ mối t́nh trọn vẹn.


---
This article comes from Cánh Thép
http://www.canhthep.com

Thai Duong 530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh-Pleiku Air Base, Vietnam