LÁ CỜ CHÍNH NGHĨA
GS Trần Gia Phụng
Lời người viết: Sau khi bài “Mặt trời không bao giờ lặn
bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” được đăng trên báo và đưa
lên web, có một độc giả tự xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho
người viết và đưa ra hai câu hỏi: 1) Tại sao người viết nói rằng
lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất
nước bị chia hai? 2) Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc
đỏ là lá cờ chính nghĩa th́ người viết giải thích như thế nào về
biến cố 1975? Xin cảm ơn anh du học sinh đă đặt câu hỏi. Sau đây là
bài trả lời câu hỏi thứ nhất. Tôi sẽ trả lời câu hỏi thứ hai trong
số báo sau.
1.- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Năm 1945, sau thế chiến thứ hai, Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh
(VM), một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương
(CSĐD), nhanh tay chiếm được chính quyền. Vua Bảo Đại (trị v́ 1925-1945)
quyết định thoái vị và trao quyền lại cho mặt trận VM. Ngày 2-9-1945, Hồ
Chí Minh tuyên bố thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và ra mắt
chính phủ lâm thời, chọn cờ của mặt trận VM là Cờ đỏ sao vàng làm
quốc kỳ.
Không đầy mười ngày sau, trung ương đảng CSĐD họp tại
Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra chủ trương VM độc quyền cai trị đất
nước. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.) [Về
sau, đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục việc nầy qua điều 4 hiến
pháp năm 1992.]
Để bảo đảm độc tôn quyền lực, về đối nội,
VM thực hiện kế hoạch mà VM gọi là “giết tiềm lực” hay “tiêu
diệt tiềm lực”, tức là tiêu diệt tất cả các đảng phái và tất
cả các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, tất cả những người có
khả năng nhưng không cộng tác với VM, có thể nguy hiểm cho VM hay trở thành
đối thủ của VM trong tương lai.
Về đối ngoại, VM nhượng bộ các lực lượng nước
ngoài để rảnh tay đối phó với các lực lượng đối kháng trong
nước, nhằm duy tŕ việc độc quyền chính trị. Khi Pháp gởi lực lượng,
theo quân Anh tái chiếm miền Nam, rồi tiến ra Bắc nhằm thay thế quân Trung Hoa Quốc
Dân Đảng, VM liên tục nhượng bộ. Thấy VM yếu kém, ngày 18-12-1946, Pháp buộc
VM phải giao quyền kiểm soát an ninh Hà Nội cho Pháp. Hồ Chí Minh họp trung ương
đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Nội) trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định
bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946. (Một nhóm tác giả, Từ điển bách
khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.) Không thể để
Pháp bắt và cũng không thể bỏ trốn nhục nhă, quyết định của hội
nghị Vạn Phúc nhằm tạo cơ hội cho các nhà lănh đạo VM và đảng CSĐD
thoát thân ra khỏi Hà Nội một cách chính thức. Thế là chiến tranh không tuyên chiến
xảy ra.
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, VM tiếp tục chủ trương “giết
tiềm lực”. Trong các năm 1945, 1946, 1947 trên toàn quốc, VM giết khoảng 100,000
người ở tất cả các cấp từ trung ương xuống tới địa
phương làng xă. Đứng đầu danh sách nầy là những nhân vật như Phạm
Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Tử
Anh …
V́ bản năng sinh tồn, những người theo chủ nghĩa dân tộc không
cộng sản phải trốn tránh, bỏ ra nước ngoài, hoặc phải đến
sinh sống tại vùng do Pháp tái chiếm khi Pháp trở lại Đông Dương, hay chẳng
đặng đừng cộng tác với Pháp để thành lập tổ chức hành chánh
địa phương tạm thời do Pháp bảo trợ, chống lại VM.
Ở Nam Kỳ, chính phủ Cộng ḥa Lâm thời Nam Kỳ được thành lập
tháng 6-1946, đổi thành chính phủ Nam Kỳ tự trị tháng 2-1947. Cũng trong tháng 2-1947,
Pháp thành lập Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ tại Huế. Ra tới
Hà Nội, Pháp thành lập Uỷ ban Lâm thời Hành chánh và Xă hội, c̣n được gọi
là Hội đồng An dân tháng 5-1947. Tháng 10-1947, ông Nguyễn Văn Xuân, thiếu tướng
trong quân đội Pháp, đă từng được Hồ Chí Minh cử làm quốc vụ
khanh trong chính phủ VNDCCH ngày 2-9-1945, đứng ra thành lập chính phủ lâm thời Nam Kỳ.
Việt Minh kết án chung tất cả các tổ chức nầy là Việt gian, tay sai
thực dân Pháp. Tuy nhiên nếu những người nầy không hợp tác với Pháp để
chống VM cộng sản, bảo toàn sinh mạng của chính họ, th́ không lẽ họ
ngồi yên để chờ đợi VM tới bắt giết, như đă từng bắt
giết Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi? Nếu Nguyễn Văn Xuân, một tướng lănh
trong quân đội Pháp, là tay sai của thực dân Pháp, th́ tại sao Hồ Chí Minh lại cử
làm quốc vụ khanh trong chính phủ của Hồ Chí Minh?
2.- CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ XUẤT HIỆN
Trong khi đó, trong một chuyến công du cho chính phủ VM qua Trung Hoa tháng 3-1946, theo lời
cựu hoàng Bảo Đại, cố vấn chính phủ VM, ông bị phái đoàn VM bỏ rơi
ở lại Côn Minh (Kunming) tháng 4-1946. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb.
Xuân Thu, 1990, tr. 242.) Cựu hoàng tự ư thức rằng VM bỏ rơi ông có nghĩa là VM không
c̣n cần đến ông nữa, nên cựu hoàng bắt đầu tách ra khỏi chính phủ
VM, qua trú ngụ ở Hồng Kông. Các lănh tụ trong các tổ chức hay đảng phái theo
chủ nghĩa dân tộc dần dần tập họp chung quanh cựu hoàng Bảo Đại,
yêu cầu cựu hoàng ra cầm quyền trở lại, nhằm tranh đấu giành độc
lập và thống nhất đất nước.
Về phía Pháp, sau một thời gian thương thuyết với VM nhưng thất
bại, Pháp thay đổi chính sách từ tháng 9-1947, quay qua thương thuyết với cựu
hoàng Bảo Đại để t́m một giải pháp mới. Cao uỷ Pháp tại Đông
Dương là Émile Bollaert gặp cựu hoàng Bảo Đại trên một chiếc tàu thả
neo ở vịnh Hạ Long ngày 6-12-1947. Hai bên đồng kư bản thông cáo chung theo đó Pháp
hứa trao trả độc lập cho Việt Nam và ngược lại Việt Nam hứa
sẽ cộng tác và ưu tiên sử dụng chuyên viên Pháp trong công cuộc kiến thiết
đất nước.
Sau cuộc nói chuyện sơ khởi trên đây, Bảo Đại qua Pháp tiếp tục
vận động. Để tạo cơ chế hành chánh chung có thể nói chuyện với
Pháp, khi trở về lại Hồng Kông, cựu hoàng uỷ cho Nguyễn Văn Xuân lập
chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân được Hội
nghị các giới cầm quyền do Pháp bảo trợ và đại diện các đoàn thể,
các đảng phái tại ba miền Bắc Trung, Nam Việt Nam, họp tại Sài G̣n ngày 20-5-1948,
đồng ư ủng hộ làm thủ tướng.
Ngày 1-6-1948 Nguyễn Văn Xuân chính thức công bố chính phủ Trung ương Lâm
thời Việt Nam gồm đầy đủ đại diện Bắc, Trung và Nam Việt
Nam. Hôm sau, 2-6-1948, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố “Pháp quy lâm thời”
(Statut provisoire), quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ ở giữa, quốc ca là bài
“Tiếng gọi sinh viên”, sau đổi là “Tiếng gọi thanh niên” của
Lưu Hữu Phước.
Khi chuẩn bị lập chính phủ, Nguyễn Văn Xuân đă cho trưng cầu ư
kiến về việc chọn quốc kỳ. Lúc đó có năm lá cờ được đề
nghị để chọn làm quốc kỳ, gồm có ba lá cờ do uỷ ban đại diện
ba miền Bắc, Trung và Nam phần đưa ra, và hai lá cờ do đại diện Phật
Giáo Ḥa Hảo và đạo Cao Đài đề nghị. Cuối cùng lá cờ do đại
diện miền Nam đề nghị được chấp thuận v́ có ư nghĩa nhất,
lại không phức tạp, dễ thực hiện.
Quốc kỳ mới do thủ tướng Nguyễn Văn Xuân công bố h́nh chữ
nhật, chiều cao bằng hai phần ba chiều ngang, nền vàng giống như cờ của
Trần Trọng Kim, nhưng thay v́ quẻ ly, nay đổi lại ba sọc đỏ bằng
nhau, chạy dài theo chiều ngang của lá cờ. Chiều cao chia thành 3 phần bằng nhau.
Ở phần giữa, ba sọc đỏ nằm xen kẻ với hai sọc vàng, tất cả
năm sọc đều bằng nhau.
Ngày 8-3-1949 cựu hoàng Bảo Đại kư với tổng thống Pháp là Vincent Auriol
hiệp định Élysée, tại Paris, theo đó chính phủ Pháp chính thức giải kết
ḥa ước bảo hộ năm 1884, Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Sau
những thủ tục pháp lư đưa Nam Kỳ, vốn là thuộc địa của Pháp,
sáp nhập trở lại vào lănh thổ Việt Nam, nghĩa là đất nước được
thống nhất, Bảo Đại trở về Việt Nam lập chính thể Quốc Gia
Việt Nam do ông làm quốc trưởng cuối tháng 4-1949.
Lúc đó, trên đất nước Việt Nam có hai chính phủ. Chính phủ QGVN ở
các thành phố và vùng nông thôn phụ cận. Chính phủ VNDCCH ở núi cao, rừng sâu và bưng
biền. Khu vực cai trị của hai bên không có giới tuyến rơ rệt. Hai chính phủ
theo hai đường lối hoàn toàn đối kháng nhau. Chính phủ QGVN chủ trương
tự do dân chủ, đa đảng tuy có phần hạn chế v́ chiến tranh, và dựa
trên nền tảng văn hóa dân tộc. Chính phủ VNDCCH chủ trương độc tài
toàn trị, độc đảng và dựa trên nền văn hóa Mác-xít. Hai chính phủ được
tượng trưng bằng hai lá cờ cũng đối nghịch nhau: Cờ vàng ba sọc
đỏ và Cờ đỏ sao vàng.
Về phía QGVN, do đặc trính tự do dân chủ, nhiều chính phủ kế tiếp
nhau cầm quyền. Cuối cùng, năm 1954 quốc trưởng Bảo Đại cử
Ngô Đ́nh Diệm lập chính phủ. Ngô Đ́nh Diệm chính thức chấp chánh từ ngày
7-7-1954 (ngày Song thất). Hai tuần sau, hiệp định Genève được kư kết ngày
20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở sông Bến Hải (vĩ tuyến 17), VNDCCH ở
phía bắc và QGVN ở phía nam.
Ông Diệm ổn định t́nh h́nh miền Nam, tổ chức trưng cầu dân ư
ngày 23-10-1955, thiết lập chế độ Việt Nam Cộng Ḥa do ông làm tổng thống
ngày 26-10-1955. Quốc hội lập hiến được bầu ngày 4-3-1956, bàn chuyện
thay đổi quốc kỳ và quốc ca, nhưng chưa có mẫu vẽ quốc kỳ mới
nào ưng ư hơn, nên ngày 31-7-1956, Quốc hội ra quyết nghị hoăn bàn, và vẫn giữ
quốc kỳ như cũ. Sau đó Quốc hội mở cuộc thi vẽ quốc kỳ
mới; có tất cả 350 mẫu cờ và 50 bài nhạc được đề nghị.
Ngày 17-10-1956, Quốc hội lập hiến một lần nữa ra tuyên bố không chọn
được mẫu quốc kỳ và bài hát nào hay đẹp và ư nghĩa hơn, nên quyết
định giữ nguyên màu cờ và quốc ca cũ làm biểu tượng quốc gia.
Lá Cờ vàng ba sọc đỏ được miền Nam sử dụng cho đến
năm 1975, khi cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn của Quốc
tế cộng sản, cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30-4.
Như thế, lá Cờ vàng ba sọc đỏ đă xuất hiện từ năm 1948
trên toàn quốc, chứ không phải chỉ xuất hiện sau năm 1954, ở miền Nam
Việt Nam sau khi đất nước bị chia hai. Lá Cờ vàng ba sọc đỏ hoàn
toàn đối nghịch với lá Cờ đỏ sao vàng chẳng những về màu sắc,
nhưng quan trọng nhất đối nghịch cả về ư nghĩa chính trị. Một
bên, Cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho tự do dân chủ và dân tộc;
một bên, Cờ đỏ sao vàng tượng trưng cho độc tài, đảng trị
và quốc tế cộng sản.
TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 04-04-2009)
Lá Cờ Chính Nghĩa luôn luôn và măi măi bay cao
THế hệ 1.50 Thế
hệ 2.00 Thế hệ 3.00
GS Trần Gia Phụng
Lời người viết: Sau khi bài “Mặt trời không bao giờ
lặn bên trên lá Cờ vàng ba sọc đỏ” được đăng trên báo và đưa
lên web, có một độc giả tự xưng là du học sinh Việt Nam gởi e-mail cho
người viết và đưa ra hai câu hỏi: 1) Tại sao người viết nói rằng
lá Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện năm 1948 chứ không phải 1954 khi đất
nước bị chia hai? 2) Nếu người viết bảo rằng lá Cờ vàng ba sọc
đỏ là lá cờ chính nghĩa th́ người viết giải thích như thế nào về
biến cố 1975? Xin cảm ơn anh du học sinh đă đặt câu hỏi. Tuần trước,
tôi đă giải thích câu hỏi thứ nhất, trong số báo nầy, tôi xin trả lời
câu hỏi số 2.
1.- BA MƯƠI THÁNG TƯ QUA THỜI GIAN
Ngày 30-4-1975 là ngày quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) cưỡng
chiếm Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Tuy nhiên, qua thời gian, nhiều tài liệu về chiến
tranh Việt Nam được tiết lộ, cho thấy sự thành bại giữa hai bên
Việt Nam không phải do chính hai bên quyết định, mà do quyết định của
những thế lực bên ngoài.
Chiến tranh ở Việt Nam tái diễn vào năm 1960 bắt nguồn từ quyết
định của đại hội 3 của đảng Lao Động (LĐ) diễn ra
vào đầu tháng 9-1960 tại Hà Nội. Trong đại hội nầy đảng LĐ chủ
trương VNDCCH sẽ tấn công VNCH để thống nhất đất nước.
Muốn tấn công Nam Việt, Bắc Việt phải một lần nữa cầu đến
viện trợ của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) và Liên Xô cùng khối cộng sản.
Không lẽ ngồi chờ chết, nên trong thế tự vệ, Nam Việt phải nhờ
đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và Đồng minh để chống lại
Bắc Việt.
Các cường quốc giúp đỡ hai phía Việt Nam đều có những mưu
tính riêng tư về quyền lợi chính trị và kinh tế của họ. Liên Xô và CHNDTH muốn
sử dụng Việt Nam để cầm chân Hoa Kỳ tại Đông Nam Á, trong khi Liên Xô
và CHNDTH bành trướng ở những vùng khác. Hoa Kỳ đến Việt Nam nói là để
chận đứng làn sóng cộng sản đang có nguy cơ tràn xuống Đông Nam Á.
Sau một thời gian có mặt ở Việt Nam, Hoa Kỳ nhận ra rằng Hoa Kỳ
cần phải rút ra khỏi Việt Nam để đổi lấy mối liên lạc với
CHNDTH, phá vỡ thế liên kết giữa CHNDTH và Liên Xô. Từ đó Hoa Kỳ chuẩn bị
rút quân ra khỏi Việt Nam.
Dấu mốc quan trọng trong sự chuyển hướng chiến lược toàn
cầu của Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1971 khi Hoa Kỳ không phủ quyết,
để cho CHNDTH vào Liên Hiệp Quốc thay Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó, tổng thống
Hoa Kỳ Richard Nixon thăm viếng Bắc Kinh trong một tuần lễ từ 21-2-1972, mà
Nixon cho rằng đây là một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới.(John
S. Bowman chủ biên, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 190.) Cuộc viếng thăm
kết thúc bằng thông cáo chung Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972 trong đó hai bên đều
đối chọi nhau trong tất cả các điều khoản, trừ điều chót là
hai bên đồng ư tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Đặc biệt, ngày 2-6-1972, Henry Kissinger, bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
nói với Châu Ân Lai, thủ tướng CHNDTH trong một cuộc hội kiến tại Bắc
Kinh rằng: “Nếu chúng tôi có thể sống với một chính quyền cộng sản
ở Trung Quốc, chúng tôi cũng có thể chấp nhận chính quyền đó ở Đông
Dương.” (Kissinger Papers: U.S. OK with takeover-Bostom.com.)
Xin chú ư cho rằng Kissinger tuyên bố chủ trương trên đây vào giữa năm
1972, trước khi Quốc hội Hoa Kỳ quyết định cắt giảm viện trợ
cho VNCH. Do đó, việc làm của Quốc hội Hoa Kỳ, cắt giảm đến mức
tối thiểu toàn bộ viện trợ Hoa Kỳ, cấm đưa quân đội ra nước
ngoài, là phụ họa với chính sách của chính phủ Nixon, chứ không phải là khóa tay
chính phủ Nixon.
Câu tuyên bố của Henry Kissinger về chủ trương mới của Hoa Kỳ,
chấp nhận sống chung với một chế độ cộng sản ở Đông
Dương, chính là lời tiên báo cái chết của VNCH, mà năm 1954 Hoa Kỳ gọi là tiền
đồng chống Cộng trẹn thế giới, v́ sau đó, hiệp định Paris được
kư kết, Mỹ rút quân, cắt viện trợ. Quân lực VNCH đang anh dũng chiến đấu
và những tài liệu mới cho thấy đang chiến thắng, v́ thiếu tiếp liệu,
thiếu đạn dược, đành buông súng. Chiến tranh chấm dứt.
Sơ lược như trên để thấy rằng lư do chính khiến chiến tranh
Việt Nam nhanh chóng kết thúc v́ Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu và
“thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của
Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.” (Roger Warner, Shooting
at the Moon [Bắn trăng], Vermont: Steerforth Press, 1996, tr. 336.). Như thế, biến cố 30-4-1975
chỉ là sự đổi chác quyền lợi giữa các cường quốc.
Đó là chuyện trước ngày 30-4-1975. Chuyện sau ngày 30-4-1975 th́ như thế nào?
Theo CSVN, Bắc Việt tấn công Nam Việt là để giải phóng dân tộc ra khỏi
ách thống trị của Mỹ ngụy. Giải phóng là cởi mở, từ t́nh trạng
tù túng đến chỗ tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung
sau năm 1975 được xem là một cái lồng lớn, nhốt dân chúng Việt Nam dưới
chủ nghĩa cộng sản. Chế độ độc tài đảng trị lộng
hành. Ở đâu cũng phải có hộ khẩu. Đi đâu ở trong nước cũng
phải xin giấy phép. Đời sống lầm than, cơ cực.
Dân chúng vượt biên ra nước ngoài càng ngày càng nhiều. Các nước trên thế
giới chỉ trích mạnh mẽ. Đảng LĐ đành phải đổi mới kinh
tế. Dầu vậy, cho đến nay, hơn 30 năm sau ngày 30-4-1975, Việt Nam vẫn không
có tự do tôn giáo, không có tự do chính trị, không có tự do báo chí… và chỉ có tự
do tham nhũng, tự do đói nghèo, tự do đĩ điếm… Người dân muốn
tỏ ḷng yêu nước cũng không được mà phải xin phép. Vậy cuộc giải
phóng ngày 30-4-1975 là chuyện hoàn toàn phỉnh gạt.
Khẩu hiệu của CSVN để kêu gọi dân chúng nổi dậy là “chống
Mỹ cứu nước”. Cộng sản Việt Nam chống Mỹ cứu nước
cách sao mà ngày nay, ở Việt Nam, Mỹ đi đầy đường. Trước kia,
Mỹ chỉ đi lại ở miền Nam, nhạc Mỹ, trường Mỹ rất ít.
Ngày nay, nhờ đảng LĐ chống Mỹ cứu nước mà Mỹ đi tràn lan cả
Nam lẫn Bắc, ra tận Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Ĺên Sơn, Sapa…
Nhạc Mỹ đâu đâu cũng nghe, trường Mỹ mọc lên ở các thành phố
lớn. Thật tội nghiệp cho biết bao nhiêu thanh niên ưu tú đă nằm xuống
v́ câu khẩu hiệu giả dối của đảng LĐ.
Trong khi đó, cứu nước như thế nào mà năm 1979 sáu tỉnh biên giới
phía bắc bị Trung Quốc tàn phá, rồi phải kư hiệp định nhượng đất
năm 1999 và nhượng biển năm 2000. Chẳng những thế, các hải đảo
bị lấn chiếm từ từ mà vẫn cúi đầu mời Trung Quốc vào Cao nguyên
Nam Trung phần để khai thác bauxite. Vậy cứu nước hay bán nước?
Một cuộc chiến thắng chỉ thật sự có ư nghĩa và chính nghĩa khi
chiến thắng đó đem lại đời sống hạnh phúc ấm no cho toàn dân. Đàng
nầy, biến cố 30-4-1975 chỉ đem lại độc tài, áp bức, tham nhũng,,
bất công, tù đày, chà đạp nhân quyền và dân quyền của dân chúng Việt Nam.
Như thế, ngày 30-4-1975, nói là ngày chiến thắng của VNDCCH, cũng là ngày lộng
hành của phe xấu, nói như thượng nghị sĩ Mc Cain (tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ)
giữa thành phố Sài G̣n năm 2000 rằng trong cuộc chiến vừa qua, phe xấu đă
chiến thắng. Đó là lư do v́ sao lá cờ chính nghĩa, Cờ vàng ba sọc đỏ tạm
thời lui bước.
4.- CHÍNH NGHĨA TẤT THẮNG
Sau biến cố 30-4-1975, lúc đầu khoảng trên 100,000 người ra đi ngay
khi cộng sản cầm quyền. Dần dần con số nầy tăng lên, tăng lên măi
làm cho cả thế giới bàng hoàng. Các trại tỵ nạn được thành lập,
các nước tự do mở cửa đón người tỵ nạn. Người ta bắt
đầu đánh giá lại các biến chuyển ở Việt Nam, đánh giá lại các chế
độ cộng sản. Phải chăng v́ vậy các nước Tây Âu và Hoa Kỳ thêm phần
ủng hộ các phong trào đối kháng cộng sản ở Đông Âu, đưa đến
sự sụp đổ đế quốc Liên Xô trong các năm từ cuối năm 1989 đến
năm 1991?
Cao điểm của việc đánh giá lại các chế độ cộng sản
là nghị quyết 1481 ngày 25-01-2006 của Quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp),
lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ
cộng sản toàn trị đă vi phạm nhân quyền tập thể. Điều 2 của
nghị quyết nầy ghi rằng” “Những chế độ toàn trị cộng
sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn c̣n
cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ)
biểu thị chân tướng của sựï vi phạm nhân quyền tập thể. Những
vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử,
bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết
chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động,
và những h́nh thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đăi
v́ chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng
và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” Chế độ cộng
sản Việt Nam hiện nay hẳn nhiên nằm trong điều 2 của nghị quyết
1481.
Trong khi đó, người Việt tỵ nạn tại các nước trên thế giới
dần dần thành công, và tập họp thành những cộng đồng càng ngày càng lớn
mạnh. Các cộng đồng người Việt tỵ nạn đều chọn lá Cờ
vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng. Riêng tại Hoa Kỳ, chính quyền nhiều
thành phố và tiểu bang công bố quyết định công nhận lá Cờ vàng ba sọc
đỏ là biểu tượng chính thức của cộng đồng người Việt
tỵ nạn cộng sản, bắt đầu từ thành phố Westminster ở tiểu
bang California với nghị quyết số 3750, ngày 19-2-2003.
Vào cuối tháng 3-2009, tại tiểu bang Massachusetts, hạ viện (với số phiếu
145-0) và thượng viện (với số phiếu 37-0) vừa thông qua nghị quyết số
H 3415 gồm nhiều điều khoản khác nhau, trong đó có điều khoản cấm
treo cờ đỏ CSVN, được tạm dịch như sau: “CẤM TREO CỜ BẮC
VIỆT - Nghị Quyết chỉ định lá cờ cũ Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là lá
cờ duy nhất đại diện cho quốc gia Việt Nam có thể dùng để treo trong
các buổi sinh hoạt công cộng do Tiểu Bang bảo trợ hay được treo ở
các cơ sở Giáo Dục công cộng . Theo các nhà yểm trợ nhận định là Cờ
Nam Việt Nam (Cờ Vàng) là biểu tượng của sự Quật Cường, Nhân Ái
và Dân Chủ từ năm 1954 cho tới khi đất nước rơi vào tay CSVN năm 1975
. Hơn nữa cờ CSVN là lá cờ chủ nghĩa CSVN mang tính đàn áp, kích động tinh
thần người Mỹ Gốc Việt nên không thể dùng để treo trong các buổi
sinh hoạt công cộng. (http://www.Vietland.net ngày 2-4-2009).
Điều đặc biệt của nghị quyết nầy là chẳng những vinh
danh Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng, của
sự quật cường nhân ái và dân chủ, mà c̣n lên án rằng Cờ đỏ sao vàng mang
tính đàn áp, không thể dùng được. Massachusetts là tiểu bang diễn ra những cuộc
biểu t́nh phản chiến mạnh mẽ trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam
trước năm 1975, và là tiểu bang nhà hiện nay của hai thượng nghị sĩ
liên bang nổi tiếng cấp tiến là E. Kennedy và J. Kerry. V́ vậy nghị quyết H 3415
do quốc hội tiểu bang nầy thông qua không thể chỉ xem là để công nhận
lá cờ của Cộng đồng người Việt ở Massachusetts, mà c̣n chứng tỏ
một sự chuyển hướng nhận thức của người Hoa Kỳ đối
với chiến tranh Việt Nam vừa qua và với chế độ cộng sản hiện
nay ở trong nước.
Tin mới nhất, ngày 7-4-2009, thống đốc tiểu bang Virginia chính thức kư
tên và công bố nghị quyết 275, chọn ngày 11 tháng 5 là NGÀY NHÂN QUYỀN VIỆT NAM để
yểm trợ phong trào tranh đấu đ̣i hỏi nhân quyền ở Việt Nam. Khi chọn
một ngày nhân quyền cho Việt Nam cần được hiểu là Việt Nam hiện
nay thiếu nhân quyền nên mới có việc chọn ngày nhân quyền để cổ vơ, vận
động nhân quyền cho Việt Nam. Được biết rằng trước đây,
ngày 15-04-2004 tiểu bang Virgina đă công bố luật 1457 ER công nhận Cờ vàng ba sọc
đỏ là cờ của cộng đồng Việt Nam tại tiểu bang Virginia. Chăc
chắn nghị quyết mới, tức nghị quyết 275 ngày 7-4-2009 sẽ dần dần
lan qua các tiểu bang khác như trước đây các tiểu bang Hoa Kỳ nối tiếp
nhau công nhận Cờ vàng ba sọc đỏ là cờ Cộng đồng người Việt
ở hải ngoại.
Như thế, đúng là ngày 30-4-1975, bạo quyền Hà Nội đă thắng trận,
nhưng thắng một trận không có nghĩa là thắng cuộc chiến, v́ cuộc chiến
quốc-cộng ở Việt Nam vẫn tiếp tục dưới một h́nh thái khác không
vơ trang. Tất cả những diễn tiến ở trong nước và trên thế gới cho
thấy từ sau ngày 30-4-1975, bạo quyền Hà Nội dần dần thất bại trong
ḥa b́nh. Mất hậu thuẫn của dân chúng, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội phải
dựa vào ngoại bang để sống c̣n. Từ đó mới đưa đến các vụ
nhượng đất, nhượng biển, nhượng đảo và vụ bauxite ở
Tây nguyên (cao nguyên Nam Trung phần). Càng ngày nhà cầm quyền Hà Nội càng lún sâu vào tội
lỗi phản dân hại nước.
Trong khi đó, chính nghĩa tự do dân chủ tạm thời thất thế trước
bạo quyền ngày 30-4-1975, nhưng cuối cùng chính nghĩa luôn luôn sống măi với ḷng
người và chính nghĩa dần dần chiếm lại ưu thế. Nhà cầm quyền
Hà Nội càng phản dân hại nước, chính nghĩa tự do dân chủ càng sáng ra càng được
mọi người trân trọng quư mến.
Các chế độ độc tài hung bạo như Hitler, Stalin trên thế giới cuối
cùng phải cáo chung. Chắc chắn, một lúc nào đó chế độ cộng sản độc
tài toàn trị cũng sẽ phải cáo chung ở Việt Nam, như đă từng cáo chung ở
Liên Xô. Lá Cờ vàng ba sọc đỏ, tượng trưng cho chính nghĩa dân tộc, cho
nhân ái, tự do, dân chủ sẽ trở về tung bay dưới bầu trời quê hương
Việt Nam ngàn đời yêu dấu.
TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 12-4-2009)
KÍNH MỜI ĐỒNG HƯƠNG THAM DỰ LỄ THƯỢNG KỲ QUỐC GIA
VIỆT NAM VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN TỔ CHỨC TỪ 10 SÁNG CHỦ NHẬT
03-05-2009 TẠI TORONTO CITY HALL.
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ
Trần
Gia Phụng
Hiện nay, người Việt hải ngoại sống rải rác khắp
các nơi trên thế giới. Không kể dân số trong nước, người Việt hải
ngoại ít nhất cũng gần 3 triệu người. Riêng tại thành phố Toronto và vùng
phụ cận khoảng 80,000 người. Ở khắp mọi nơi, người Việt
họp thành những cộng đồng đang càng ngày càng lớn mạnh. Mỗi cộng
đồng đều có một biểu tượng riêng. Nh́n vào biểu tượng đó,
người ta biết nguồn gốc, văn hóa, căn tính của mỗi cộng đồng.
Ngược lại, từ nguồn gốc, văn hóa của cộng đồng, người
ta cần t́m một mẫu số chung để chọn biểu tượng cho cộng đồng.
Vậy mẫu số chung để có thể trở thành biểu tượng của cộng
đồng người Việt hải ngoại hiện nay là ǵ?
Trước hết,
cộng đồng người Việt hải ngoại gồm có các thành phần sau đây:
1) Những người ra đi trước biến cố 30-4-1975. 2) Những người
vượt biên sau biến cố 30-4-1975. 3) Những người được bảo lănh.
4) Những người xuất khẩu lao động.
Trước năm 1975, hai đợt
người ra đi chính: Đợt thứ nhất gồm những người do nhà cầm
quyền Pháp ở Đông Dương tuyển mộ và đưa sang Pháp từ năm 1915
đến năm 1919, khoảng 100,000 người trong đó khoảng một nửa là lính
chiến đấu, một nửa là lính thợ (ouvrier non spécialisé gọi tắt là ONS). (Hoàng
Cơ Thụy, Việt sử khảo luận tập 3, Paris: Nxb. Tân Á, 2002, tr. 1673.) Sau thế
chiến thứ nhất, một số trở về và đa số ở lại Pháp. Đợt
thứ hai là những du học sinh từ năm 1949 đến năm 1975, không phải chỉ
đi Pháp mà c̣n đến các nước khác trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Anh,
Úc, New Zealand…Khi xảy ra biến cố 30-4-1975, hầu hết đều ở lại
nước ngoài.
Sau biến cố 30-4-1975, nhiều người vượt biên tỵ
nạn cộng sản bằng đường biển hay bằng đường bộ.
Cuộc vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1995, có thể chia thành hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ 1975 đến 1989 là năm Cao uỷ Tỵ nạn Liên
Hiệp Quốc (UNHCR) ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn. Giai đoạn thứ
hai từ 1989 đến 1995. Từ năm 1996, CUTNLHQ đóng cửa vĩnh viễn các trại
tỵ nạn. Cuộc vượt biên trong giai đoạn thứ hai khó khăn hơn v́ phải
trải qua “thanh lọc” tư cách tỵ nạn, mới được nhận đi
định cư. Tổng số người vượt biên đến định cư
được ở nước ngoài lên đến gần 1 triệu người và số
người tử nạn trên đường vượt biên, không đến được
miền đất tự do, khoảng 500,000 người. (Các số liệu nầy theo Người
Việt Online ngày 28-10-2004.)
Những người vượt biên, một khi đă ổn
định cuộc sống ở một nước khác, bắt đầu bảo lănh thân
nhân ra nước ngoài. Đó là những người ra đi theo chương tŕnh O.D.P. (Orderly
Departure Program). Ngoài ra, c̣n có một số khá lớn những người đi theo chương
tŕnh HO là chữ mà người Việt thường dùng để gọi chương tŕnh
The Special Released Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương tŕnh đặc biệt tái
định cư cựu tù cải tạo được phóng thích), bắt đầu từ
năm 1989, do chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho các nhân viên và quân nhân chính phủ Việt
Nam Cộng Ḥa bị ba năm tù cộng sản trở lên và gia đ́nh, tái định cư
tại Hoa Kỳ.
Cuối cùng, cộng đồng người Việt hải ngoại
c̣n có những sinh viên du học hay công nhân xuất khẩu lao động qua Liên Xô và Đông
Âu, xin tỵ nạn ở các nước ngoài khi chế độ cộng sản sụp đổ
tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1991. Số liệu trong nước cho biết
số nầy lên đến 300,000 người. Sau đó, nhiều người trong số nầy
t́m cách chuyển qua sinh sống ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Như vậy, dù ra đi
trước năm 1975, dù vượt biên sau năm 1975, dù bảo lănh, HO hay xuất khẩu
lao động, người Việt ở hải ngoại nói chung đều là những người
không muốn sống dưới chế độ cộng sản Việt Nam, ra nước
ngoài để t́m một đời sống tự do mới ở nước ngoài, có thể
nói chung là những người tỵ nạn cộng sản hoặc bất đồng với
chế độ cộng sản. Nếu không bất đồng với chế độ
cộng sản, th́ người ta đă về nước sinh sống sau năm 1975, khi đất
nước do chế độ cộng sản kiểm soát. Có một điểm cần lưu
ư là sau năm 1975, nếu có người nào nói rằng vượt biên hay ra nước ngoài
v́ lư do kinh tế, th́ chắc chắn Cao uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đă trả
người đó về Việt Nam, hoặc chính các nước bảo trợ cũng không
chấp nhận cho đến tỵ nạn kinh tế.
Tuy nhiên, giả thiết như,
xin nhấn mạnh chỉ giả thiết mà thôi, có một người can đảm tự
nhận ra đi v́ lư do kinh tế, có nghĩa là chế độ cộng sản ở trong
nước không tạo được điều kiện để cho người đó
sinh sống, hay nói cách khác người đó hoặc bất đồng với chế độ
cộng sản, hoặc là nạn nhân kinh tế của chế độ cộng sản, nên
mới kiếm cách bỏ ra nước ngoài sinh sống. Vậy người đó không phải
là nạn nhân chính trị, th́ cũng có thể xem là nạn nhân kinh tế của chế độ
cộng sản.
Như thế, có thể nói tính chất chung của người Việt
hải ngoại là những người tỵ nạn cộng sản, dù ra đi từ Bắc
hay Nam Việt Nam, dù trước hay sau năm 1975, dù vượt biên hay bảo lănh, dù là v́ lư
do chính trị hay lư do kinh tế. Vậy biểu tượng chung cho người Việt hải
ngoại, dầu ra nước ngoài v́ bất cứ lư do nào, chắc chắn không phải là
lá Cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của chế độ đă gây ra cảnh
tỵ nạn.
Trên thế giới, lá Cờ đỏ sao vàng chỉ được treo
trong các ṭa đại sứ hay lănh sự Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).
Các ṭa đại sứ hay lănh sự CHXHCNVN ở hải ngoại nói cho cùng chỉ đại
diện cho nhà cầm quyền Hà Nội, phụ trách công việc giao dịch của chế
độ cộng sản, chứ chẳng phải là đại diện cho người Việt
ở hải ngoại. Hiện nay chế độ CHXHCNVN hầu như không có hay có rất
ít công dân ở hải ngoại. Đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đều
là những người tỵ nạn cộng sản, trốn tránh cộng sản như trốn
tránh ác quỷ, và người Việt hải ngoại đều đă nhập quốc tịch
các nước sở tại, tức là công dân các nước ngoài, chẳng cần ǵ đến
sự giúp đỡ của các ṭa đại sứ hay lănh sự CHXHCNVN.
Ví dụ một
người gốc Việt, có quốc tịch Canada hay Hoa Kỳ, tức công dân của hai
nước nầy, đi du lịch, làm ăn buôn bán tại các nước trên thế giới,
nếu có vấn đề ǵ trở ngại hay tai nạn nào, th́ ṭa đại sứ các nước
nầy sẽ can thiệp, giúp đỡ hay bênh vực cho công dân của ḿnh, chứ đâu
cần đến ṭa đại sứ cộng sản Việt Nam.
Tại ṭa đại
sứ CSVN, thỉnh thoảng có người đến làm giấy tờ xin đi Việt
Nam, không phải với tư cách công dân Việt xin về nước, mà với tư cách công
dân nước ngoài đến liên lạc với ṭa đại sứ của nước mà
người đó muốn đi du lịch mà thôi. Cũng giống như chúng ta muốn du lịch
các nước Âu Châu hay Nam Mỹ, chúng ta phải đến liên lạc với ṭa đại
sứ các nước nầy.
Lá cờ tượng trưng cho những người tỵ
nạn cộng sản, dù là tỵ nạn chính trị hay tỵ nạn kinh tế, không ǵ khác
hơn là biểu tượng của những nạn nhân cộng sản. Thích hợp nhất
cho biểu tượng nầy chính là lá Cờ vàng ba sọc đỏ, v́ lá cờ nầy đă
từng là lá cờ trên toàn cơi Việt Nam, cả Bắc và Nam Việt Nam từ năm 1948, chứ
không phải riêng của miền Nam sau năm 1954, và lá cờ nầy cũng là nạn nhân của
chế độ cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nơi nào có cộng đồng
người Việt, th́ nơi đó có lá Cờ vàng ba sọc đỏ tung bay. Cộng đồng
người Việt sinh sống khắp nơi trên thế giới, bao quanh quả địa
cầu. Suốt ngày (24/24), không chỗ nầy th́ chỗ khác, ṿng quanh quả đất, khi
nào cũng có lá Cờ vàng ba sọc đỏ phất phới dưới ánh mặt trời.
Như thế, thực tế cho thấy rằng mặt trời tỏa sáng quanh năm trên
lá Cờ vàng ba sọc đỏ, nếu chúng ta không quá hănh tiến để nói rằng MẶT
TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN BÊN TRÊN LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,
24-3-2009)
Lá Cờ Thấm Máu Phục Quốc Quân Triều
Giang
Lá cờ thấm máu phục quốc quân
Thư viện/Bảo tàng viện
Lyndon Johnson đă nhận được một lá cờ Việt Nam Cộng Hoà do gia đ́nh
ông Lộc Nguyễn, một người Mỹ gốc Việt đang sinh sống tại Austin
gửi tặng. Lá cờ vàng 3 sọc đỏ được làm bằng loại vải
mềm. có màu vàng lạt hơn những lá cờ khác v́ thời gian. Trên lá cờ c̣n có những
vệt máu thâm đen.
Theo ông Lộc Nguyễn, th́ đây là cờ được treo trên
đỉnh của một tiền đồn tại tỉnh Đà Nẵng cho đến giờ
cuối cùng trước khi tiền đồn bị thất thủ vào tháng 3 năm 1975. V́
lư do bảo mật để tránh sự nguy hiểm cho một số người liên hệ
c̣n đang sống tại VN, ông Lộc không thể nói rơ hơn về địa điểm
của tiền đồn cũng như tên tuổi của những người liên hệ.
Cha ông, vị sĩ quan chỉ huy tiền đồn đă không chịu đầu hàng. Ông và
một số binh sĩ của ông đă trốn vào rừng để tiếp tục chiến
đấu. Ông đă mang lá cờ này theo toán phục quốc quân vào trong rừng. Từ tháng
3 năm 1975 cho tới năm 1978, lá cờ này đă theo toán phục quốc quân ẩn sâu trong
rừng. Khi liên hệ được với người liên lạc là mẹ ông Lộc, cha
ông đă gửi gấm cho mẹ ông lá cờ với lời nhắn nhủ người con
trai duy nhất trong gia đ́nh rằng; ông Lộc hăy ǵn giữ lá cờ máu này và hăy t́m mọi
cách để đưa lá cờ ra khỏi VN để nói cho toàn thế giới biết về
sự đau thương của VN dưới sự cai trị hà khắc của CS, và sự
chiến đấu quyết không đầu hàng của những chiến sĩ phục quốc
quân.
Do đó, từ năm 1978 tới năm 1994, lá cờ đă được giầu
dưới giường của mẹ ông Lộc. Trước khi chết, mẹ của ông
Lộc đă cho con trai biết về lai lịch lá cờ và cái chết của người
cha. Cũng theo lời trăn trối của mẹ ông Lộc, cha ông cho bà biết vết máu
trên lá cờ là của một trong những chiến sĩ phục quốc quân. Bà không hỏi
rơ là vết máu cuả chiến sĩ phục quốc từ vết thương trong một
trận giao tranh hay là do bị thương trong lúc leo lên cột cờ để hạ lá cờ
xuống trước khi đem vào rừng cùng với toán quân.
Cái chết tức tưởi
của một phục quốc quân với lời trăn trối: Dùng lá cờ để
nới lên chính nghiă của Nam VN
Toán quân sau đó đă bị theo dơi và bị bắt vào
năm 1982. Cha ông Lộc đă vào tù cùng với các chiến hữu của ông, nhưng lá cờ
có thấm máu của người chiến sĩ phục quốc đă được con trai
ông vâng lời cha, trong một chuyến về thăm VN, bất chấp nguy hiểm, ông Lộc
đă bí mật chuyển sang Mỹ vào năm 1998.
Mẹ ông Lộc không được
biết những ǵ xảy ra sau đó cho những chiến sĩ phục quốc quân, kể
cả ngày chết cuả chồng. Ông Lộc cho biết từ kh́ cha ông bị bắt vào năm
1982, mẹ ông hàng tháng đi thăm nuôi, nhưng không bao giờ đưọc gặp chồng.
Mỗi khi đến trại tù, những người cai quản trại tù bảo bà đưa
đồ tiếp tế cho họ để họ chuyển cho chồng bà và bà ra về. Bà
đă đi thăm nuôi chồng trong tăm tối như thế trong suốt 7 năm trời.
Măi đến năm 1989, một người quen cùng trong trại tù với chồng bà đă
nhắn cho bà biết chồng bà đă bị đánh đập và bị hành hạ cho tới
chết trong tù đă nhiều năm qua. Lúc đó, người chỉ huy của toán phục
quốc quân này đang ở tuổi trên 60 và ông đă chiến đấu trên 30 năm cho lư
tưởng tự do, dân chủ của đất nước, dân tộc.
Năm 2004,
qua sự giới thiệu của người bạn là một cựu chiến binh Mỹ,
ông Patrick Reily, ông Lộc đă tặng lá cờ cho Thư viện Lyndon Johnson với ước
nguyện hoàn thành được lời trăn trối cuối cùng của người cha.
Đó là dùng lá cờ để nói cho cả thế giói biết đến sự hà khắc
của chế độ CSVN và sự chiến đầu anh dũng của quân đội
Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lộc Nguyễn hiện lập gia đ́nh với bà Thu Minh Nguyễn
và có 3 người con gái và một con trai. Ông bà đă xin phép cho các con nghỉ học một
buổi để các cháu có thể được nh́n lá cờ mà ông bà nội cuả các cháu
đă dùng mạng sống cuả họ để ǵn giữ nó.
Hiện Viện Bảo
tàng Lyndon Johnson chưa có chưong tŕnh trưng bày lá cờ này trước công chúng, nhưng
nếu có khách thăm viếng yêu cầu, thư viện sẽ đưa ra để cho khách
được chiêm ngưỡng. Để tiện việc sắp xếp, xin gọi điện
thoại trước cho quản thủ thư viện đang có trách nhiệm ǵn giữ lá
cờ, ông Michael Mc. Donald, điện thoại số: (512) 721-0199. Hoặc Email về địa
chi: michael.macdonald@nara.gov. (Trieu Giang)
Subject: |
Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản. |
|
Author: |
banglang |
|
Hay truyện người lính nhỏ mà chính khí lớn Vũ Tiến Quang. Yên-tử
cư-sĩ Trần Đại Sỹ. (Trích trong bộ Lịch-sử Thiếu-sinh-quân
Việt-Nam)
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên-hưng, tỉnh Chương-thiện.
Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3
năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, hạ sĩ Đức bị
trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ
với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh-Chi
mới tṛn một năm. V́ có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được
thu dụng làm việc tại Chương-thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư
kư ṭa hành chánh. Nhờ đồng lương thư kư, thêm vào tiền tử tuất cô nhi,
quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu
thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng
Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung
b́nh trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến-sĩ
cộng-ḥa có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ sữa Trần
Minh, Thiên-thần U-minh hạ”.
Bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường
Thiếu-sinh-quân Việt-Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu
đoàn Ngạc-thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 bộ binh).
Mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương-thiện. Quang nảy ra ư đi
t́m người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được
Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc
sống vui vẻ tại trường Thiếu-sinh-quân. Quang suưt xoa, ước mơ được
vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người
anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ : Ḿnh phải như anh Minh.
Chiều
hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp
đơn cho ḿnh nhập học trường Thiếu-sinh-quân. Bà mẹ Quang không mấy vui
vẻ, v́ Quang là con một, mà nhập học Thiếu-sinh-quân, rồi sau này trở thành anh
hùng như Trần Minh th́… nguy lắm. Bà không đồng ư. Hôm sau bà gặp riêng Trần
Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường
Thiếu-sinh-quân th́ cha phải thuộc chủ lực quân, c̣n cha Quang là địa phương
quân th́ không được. Minh từ chối: - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là quốc
gia nghĩa tử th́ ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu-sinh-quân,
th́ tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đ́nh, trong khuôn
khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang t́m đến Minh để nghe nói về
đời sống trong trường Thiếu-sinh-quân. Đă không giúp bà Đức th́ chớ,
Minh c̣n đi cùng Quang tới nhà bà,hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường.
Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến pḥng 3, tiểu khu Chương-thiện
làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong pḥng 3 tiểu khu, có trung sĩ 1 Cao Năng Hải,
cũng là cựu Thiếu-sinh-quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ
bà đổi ư, th́ ḿnh sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá
Lê Minh Đảo, tiểu khu trưởng tŕnh bầy trường hợp của Quang. Thiếu-tá
Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ
Tổng-tham-mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy
gọi nhập học trường Thiếu-sinh-quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn
con đi Vũng-tầu tŕnh diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu-sinh-quân
Việt-Nam.
Quả thực trường Thiếu-sinh-quân là thiên đường của Quang. Quang
có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt
ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học
quân sự. C̣n học văn hóa th́ Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy,
không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh-văn. Trong lớp, môn
Anh-văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục,
mà Quang đă có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với
cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt-văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết,
người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy
Viết giảng đến câu : “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ
đan tâm chiếu hăn thanh” (Người ta sinh ra, ai mà không chết. Cần phải
lưu chút ḷng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ
tay. Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được
giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài-văn vương Trần Quốc Toản, thánh tổ
của Thiếu-sinh-quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm-tử. Quang cực kỳ
sùng kính Bảo-nghĩa vương Trần B́nh Trọng, từ chối công danh, chịu chết
cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân
thù, không sợ hăi, lại c̣n tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng
vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ
hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến
Quang t́m đến các đàn anh trấn đóng tại Chương-thiện để tŕnh
diện. Quang được các cựu Thiếu-sinh-quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể
truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo
ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh
cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ
Tổng-tham-mưu Việt-Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở
thành huyền thoại. Câu truyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt-Nam gọi là Mùa hè đỏ lửa, giữa lúc chiến
trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đă đỗ chứng chỉ
1 Bộ-binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng
những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo
ra trận. Mấy ông cựu Thiếu-sinh-quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to,
mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoăn, các ông chiều…
cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc
hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ-pḥng, thuộc Cà-mau. Đơn vị mà Quang
theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu-úy
cựu Thiếu sinh quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại
giỏi tiếng Anh, nên thiếu-úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch
viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống th́ hiệu
thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa
là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung
đội tiến vào trong làng th́ lọt trận điạ phục kích của trung đoàn
chủ lực miền, tên trung đoàn U-minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch
bao vây. Vừa giao tranh được mười phút th́ Hummer bị thương. Là người
can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo
dài sang giờ thứ hai th́ Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành
ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng vơ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer
chỉ huy trực thăng vơ trang. V́ được học địa h́nh, đọc bản
đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng vơ trang nă
vào pḥng tuyến địch, coi như Hummer c̣n sống. Bấy giờ quân hai bên gần như
lẫn vào nhau, chỉ c̣n khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các
quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt-Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không
quân yểm trợ, th́ chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng
cách quân ḿnh 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu-sinh-quân
trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt t́nh thân
hữu, đă đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào pḥng tuyến địch,
dù cách ḿnh 20 thước. Quang đă được học phương pháp đó. Quang chỉ
huy trực thăng vơ trang nă vào trận địch, nhiều rocket (Hỏa-tiễn nhỏ),
đạn 155 ly nổ sát quân ḿnh, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy,
mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người
khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn
vết đạn bắn hơm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không th́
Quang đă ô-hô ai tai rồi. Viên thứ bẩy trúng… chim. Viên đạn chỉ xớt qua,
bằng không th́ Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn
được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ
15. Ông ngạc nhiên hỏi: - Hummer chết lúc 11:15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy
y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
V́ được học
kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng ḿnh là người lạm quyền,
giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng
Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa-kỳ cho Quang.
Bấy giờ mới ḷi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu-sinh-quân đă uống
thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo Quân-luật, mấy ông
anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra ṭa v́ “Không có tư cách mà lại chỉ
huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố
vấn đều là những người của chiến trường, tính t́nh phóng khoáng,
nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng
không bị phạt.
Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu
cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của
Thiếu-sinh-quân Việt-Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại
này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật: Cần-thơ,
Sóc-trăng, Bạc-liêu, Cà-mau, Chương-thiện. Quang trở thành người hùng lư tưởng
của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ
2 bộ binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về
sư đoàn 21 bộ binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối
Quang về tiểu đoàn Ngạc-thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu
đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước
của Quang đă thành sự thực.
Trung-đoàn 31 bộ binh đóng tại Chương-thiện.
Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương-thiện là Đại-tá
Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu-tá Nguyễn Văn Thời.
Cả hai đều là cựu Thiếu-sinh-quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu-sinh-quân
cao niên nhất vùng Chương-thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu-sinh-quân
trong tiểu đoàn 2/31 dẫn Quang đến tŕnh diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp
nhau, Cẩn đuổi tất cả tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn
bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi: - Ê ! Quang, nghe nói
mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, th́ mày thuộc loại ḿnh đồng da sắt.
Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à? - Dạ, đạn Việt-cộng th́
không đau. Nhưng vuốt anh cấu th́ đau. - Móng tay tao, đâu phải vuốt? -
Dạ, người ta nói anh là cọp U-minh thượng… Th́ vuốt của anh phải
sắc lắm. - Hồi đó suưt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không? -
Nếu khi ra trận anh sợ th́ em mới sợ. Cái ḷ Thiếu-sinh-quân có bao giờ nặn
ra một thằng nhát gan đâu? - Thằng này được. Thế mày đă tŕnh diện
anh Thời chưa? - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu-tá Nguyễn Văn
Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung
sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, th́ quả là một sự phạm
thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu-sinh-quân th́
lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười
nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin
Trần Minh đă đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự
ra đi của người đàn anh, của người hùng lư tưởng làm Quang buồn
không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người
Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 bộ binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các
Thiếu-sinh-quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như
một khinh binh. Đợi một vài tháng đă quen với chiến trường, rồi mới
được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa tŕnh
diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội
trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người
này đều vui ḷng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm
1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ
một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở
thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới-lai, Cờ-đỏ. Trong
ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây-đô. Đây
là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật-bản
không muốn về nước, trốn lại Việt-Nam… huấn luyện. Quang đă
được Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường: “Tây-đô
là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần-thơ. Tiểu đoàn có truyền
thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội,
tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung
đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội
ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, th́ chúng bắn
xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong.
Nếu yếu thế, th́ chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, th́ sẽ dẵm phải
ḿn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. V́ vậy khi đối trận với
chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng
bắt đầu xung phong, th́ dùng vũ khí cộng đồng nă vào giữa, cũng như
hai bên. Thấy chúng chạy, th́ tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. C̣n như
chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản
công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ
quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu,
đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ
pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đă tấn công vào trong
làng. Vừa tới b́a làng, thiếu-úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn
lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một
tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, th́ phi pháo không can thiệp được
nữa, v́ quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời
giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch.
Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm
lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn.
Quang ghi nhậnvị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh: - Lát
nữa khi chúng xung phong th́ dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hăy bắn trả.
Sau
gần 20 phút, th́nh ĺnh địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió,
rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại-liên,
B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội
của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ pḥng tuyến
địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại
gần, v́ bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại
liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh ḅ lại gần, tung vào trong một quả
lựu đạn cay. Trong khi Quang hô : - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! Bằng
không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám
người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay
làm nước mắt dàn dụa. Đến đây trận chiến chấm dứt.
Th́ ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành
Cần-thơ. Trong đó viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau
trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được
gắn huy chương Anh-dũng bội tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến
thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị
Điểm quàng ṿng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ
ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau
từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần-thơ,
thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương-thiện thăm
Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần-thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đ́nh đính
ước với nhau. Họ cùng đồng ư: Đợi năm tới, Quang xin học khóa
sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, th́ cho cưới nhau.
Nhưng mối t́nh đó đă đi vào lịch sử…
T́nh h́nh toàn quốc trong
tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban-mê-thuột bị mất, Quân-đoàn
2 rút lui khỏi Cao-nguyên, rồi Quân-đoàn 1 bỏ mất lănh thổ. Rồi các sĩ quan
bộ Tổng tham mưu được Hoa-kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của
Quang chỉ c̣n mười người. Tiểu-đoàn trưởng, đại đội
trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đ́nh. Quang vào bộ chỉ huy tiểu-khu
Chương-thiện tŕnh diện Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi : -
Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng
4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh
phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt-Nam Cộng-ḥa buông súng đầu
hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ
chiến bào, về sống với gia đ́nh. Một vài đơn vị lẻ lẻ c̣n cầm
cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-g̣n ngừng lúc 9 giờ
7 phút.
Đúng lúc đó tai Chương-thiện, tỉnh-trưởng kiêm Tiểu-khu trưởng
là đại-tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền
chống lại cuộc tấn công của Cộng-quân. Phần thắng đă nằm trong
tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng
chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ c̣n tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại-tá
Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh: - “Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống
trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng-tư-lệnh. Hăy tiếp
tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập,
v́ quân ít, v́ hết đạn v́ mất tinh thần. Chỉ c̣n lại bộ chỉ huy tiểu
khu. Trong bộ chỉ huy Tiểu-khu, có một đại đội địa phương
quân cùng nhân viên bộ tham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết.
Tới 14 giờ 45, th́ đạn hết, làn sóng Cộng-quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối
cùng chỉ c̣n một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi
đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng
súng im bặt. Quân Cộng-sản vào hầm lôi ra hai người. Một là đại-tá Hồ
Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí
19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ. Kẻ
chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại-tá chính ủy của
đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương thiện hỏi: - Đ.M.
Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại-tá
Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt. Trung sĩ Quang chỉ đại-tá
Cẩn: - Thưa Đại-tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết,
tôi cũng vẫn chiến đấu. V́ anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của
tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, th́ tôi không thể căi lệnh.
Cộng quân thu
nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác
chết nói với đại-tá Cẩn: - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M.
Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại-tá Cẩn vẫn không trả
lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng: - Đại-tá có lư tưởng
của đại-tá, tôi có lư tưởng của tôi. Đại-tá theo Karl Marx, theo Lénine; c̣n
tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lư tưởng
của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt-cộng. Tại sao đại-tá lại
mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu
vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?
Viên đại-tá
rút súng kề vào đầu Quang: - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ th́ mày có chính nghĩa
hay tao có chính nghĩa? - Xưa nay súng đạn trong tay ai th́ người đó có lư. Nhưng
đối với tôi, tôi học trường Thiếu-sinh-quân, súng đạn là đồ
chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại-tá đừng dọa tôi vô
ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, c̣n đại-tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài-văn
vương Trần Quốc Toản mà. - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không? -
Tôi có chính nghĩa th́ tôi không thể là ngụy. C̣n Cộng-quân dùng súng giết dân mới là ngụy,
là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo-nghĩa
vương Trần B́nh Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười nghạo nghễ: -
Nếu đại-tá có chính nghĩa tại sao đại-tá lại dùng lời nói thô tục
với tôi? Ừ! Muốn mày tao th́ mày tao. Đ.M. tên Cộng-sản ác ôn! Nếu tao thắng,
tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M. Mày có nhận mày là tên Việt-cộng
không? Th́ mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngă bật ngửa,
óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên c̣n nở nụ cười.
Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ư nghĩa nụ cười
đó là nụ cười ǵ? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem
nụ cườ́ đó mang ư nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười
ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa măn?
(Ghi chú:) Nhân chứng quan trọng nhất, chứng
kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô
Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô
bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ
Jean Marc Bodoret, học tṛ của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngă xuống,
th́ trong đám đông dân chúng ṭ ṃ đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như
xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu
nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh-Chi đă thuê được
chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng
cái Poncho, đem chôn. Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh-Chi, trở về Cần-thơ.
Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực
phẩm ra cúng mộ anh, th́ thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết
gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích
thân Quỳnh-Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên-hiệp các viện
bào chế châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaçeutique). Tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh-Chi
xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ
Sài-g̣n, chúng tôi thuê xe đi Chương-thiện, t́m lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc
loại vùi nông một nấm dăi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất
khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đă t́m ra. Cô khóc
như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng
bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền th́ mua tiên cũng được. Giấy
phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên-hưng, chôn cạnh mộ của
ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu
khác nhau. Tôi là người lăng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung
với nhau vào trong một cái ḥm. Bodoret hoan hô ư kiến của sư phụ.
Ngôi mộ
của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi, An giấc
ngàn thu cùng Vợ là Nguyễn Hoàng Châu Nở nụ cười thỏa măn v́ thực hiện
được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập
học trường Thiếu-sinh-quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu
là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng ngườ́
ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa măn nở nụ cười v́ mối t́nh trọn
vẹn.
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com |
|