Subject: |
Lời Chân T́nh Của Một Giáo Sư Luật HK Viết Về VNCH |
|
Author: |
amdahl |
|
30-4: Hăy đọc những ḍng chữ ngấn lệ của
một giáo sư luật HK viết về VNCH Tác Giả : Giáo sư Robert F. Turner
Nhớ
Về Việt Nam - Kư Ức 35 Năm Trước
Giáo sư Robert F. Turner tốt nghiệp
tiến sĩ về cả sư phạm lẫn chuyên môn về luật khoa từ Đại
học Luật khoa Virginia School of Law, là nơi mà ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu An ninh Luật
pháp vào năm 1981. Ông chú ư đến Việt Nam từ khi học Cao học tại Đại
học Indiana, với một luận văn dài 450 trang - đoạt giải danh dự - về
cuộc chiến Việt Nam và từ khi thường xuyên tranh luận với các lănh tụ
phản chiến trên đất Mỹ. Được động viên vào Lục quân Hoa Kỳ
năm 1968, tức là sau trận Mậu Thân, ông Turner t́nh nguyện qua Việt Nam. Dù là sĩ
quan bộ binh, trong hai chuyến phục vụ tại đây, ông làm việc bên toà Đại
sứ Hoa Kỳ với nhiệm vụ là Sĩ quan Phụ tá các Chương tŕnh Đặc
biệt của Pḥng "Bắc Việt và Việt Cộng" trong cơ quan JUSPAO. Từ 1968 đến
1975, ông đă năm lần qua Đông Dương, hoạt động nhiều nơi ở
miền Nam Việt Nam và cả Lào cùng Cam Bốt. Ông đang thuyết giảng cho cấp cử
nhân đến tiến sĩ về chiến tranh tại Đại học Virginia và Trường
Hải quân Hoa Kỳ, nơi ông là Giáo sư Danh dự về Luật pháp Quốc tế. Giáo
sư Robert Turner là tác giả hoặc đă biên tập của hơn một chục cuốn
sách, kể cả những cuốn nổi tiếng như "Vietnamese Communism", "The Real Lessons of
the Vietnam War" và "To Oppose Any Foe".
Ngày 28 tháng Tư tới đây, cùng ba học giả khác
của Hoa Kỳ, Giáo sư Robert Turner sẽ là thuyết tŕnh viên trong cuộc Hội luận
Quốc tế về cuộc chiến Việt Nam - "The Century Old Vietnam War Puzzle - What are the Missing
Pieces?" do Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tổ chức tại
Rose Center của thành phố Westminster. Đề tài tham luận của ông là "Hậu quả
của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương". Để chuẩn bị, ông đă
liên lạc với ban tổ chức từ nhiều tháng nay. Trong một điện thư
rất dài, Giáo sư Turner có nhắc tới một số kỷ niệm của 35 năm trước...
Chúng ta hăy cùng nhau chia sẻ kỷ niệm này, với lời tri ân dành cho nhiều người
Mỹ có ḷng.
Theo ư tôi, Việt Nam là một cuộc chiến tranh cần thiết.
Tôi
có thể bắt đầu bằng mấy lời "amen", ủng hộ quan điểm nhiều
người đă đưa ra và có lẽ tŕnh bày câu chuyện tôi đă nói với Bùi Công Tường
trên chuyến xe đi từ Bến Tre về Sàigon vào một buổi tối đó khi tôi hỏi
anh ta về ông Diệm. Anh ta trả lời là các đảng viên cao cấp (của Đảng
Cộng Sản Việt Nam) coi ông Diệm là nhà ái quốc lớn - tương tự như
Hồ Chí Minh - nhưng họ phải xuyên tạc với dư luận quần chúng v́ ông Diệm
không chấp nhận quyền lănh đạo của Đảng.
Tất nhiên là tôi thấy
thoải mái khi tŕnh bày về những ǵ ḿnh biết.
Tôi đă mất nhiều thời
giờ t́m hiểu về những lời cáo buộc chế độ của ông Thiệu là
vi phạm nhân quyền (quyền tự do báo chí, bầu cử, chế độ lao tù, v.v...)
và có nhiều tấm h́nh cho thấy là những người công kích chế độ này đă
bị Hà Nội đánh lừa. (Tôi có phỏng vấn Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành tại
Sàigon vào tháng Năm năm 1974. Đại sứ Graham Martin đă trích dẫn ít nhất một
cuộc phỏng vấn này trong buổi điều trần trước Ủy ban Ngoại
giao của Quốc hội vào cuối năm đó. Và đấy là một lần hiếm hoi
trong hai năm cuối của cuộc chiến mà tôi được thấy ông Martin thật
sự mỉm cười).
Cuối Tháng Tư năm 1975, tôi đang ở trong Toà Đại
sứ khi ông Graham Martin bước ra khỏi văn pḥng. Thấy tôi ở ngoài, ông mời tôi
vào bàn giấy. Ông Đại sứ đóng cửa lại và trong 20-30 phút ông đă "xả ra"
những uất ức - phê phán hầu hết mọi người tại thủ đô Washington
và nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải có trách nhiệm tinh thần với người
dân miền Nam Việt Nam. Tôi đồng cảm với sự giận dữ của ông, nhưng
cũng vui là ḿnh lắng tai cho ông có dịp trút bớt những dồn nén mà cả hai đều
cùng chia sẻ. Nhiều người đă đả kích ông, nhưng trong các cuốn sách của
tôi, Đại sứ Martin là một vị anh hùng tương đối hiếm hoi của
nước Mỹ trong mấy tuần cuối cùng đó.
Nh́n bất cứ nơi nào,
tôi thấy Hoa Kỳ đă bội phản những đối tác hay viên chức Việt Nam.
Cơ
quan USIA (Thông tin của Toà Đại sứ) đă nói với những người Việt
Nam quan trọng nhất về các điểm bốc ở một số nơi nhất định
trong những ngày cuối cùng, và bảo đảm là sẽ có trực thăng đưa họ
và gia đ́nh tới nơi an toàn. Nhưng trực thăng lại tới nơi khác để
bốc người Mỹ.
Đồng nghiệp và thông dịch viên của tôi trong hai
chuyến phục vụ là Nguyễn Van Qui (không có bỏ dấu) đang ở trong Bệnh
viện Seventh Day Adventist Hospital (Bệnh viện 3 Dă chiến) để tuyệt vọng chiến
đấu với bệnh ung thư khi các bác sĩ (Mỹ) tới thăm và cho thuốc vào
một buổi chiều. Họ nói với ông ta là sáng sau sẽ quay lại - rồi lên máy bay
đi Dodge City.
Tôi ở đó với một nhóm người Mỹ từ Tiểu bang
Michigan đă nhận trẻ Việt lai Mỹ làm con nuôi. Họ cần người biết
rơ về Việt Nam để vượt qua các trở ngại hành chánh mà kịp cứu lấy
bầy trẻ. (Thống đốc Miliken đă ban bố chánh sách "cửa ngỏ", rằng
tiểu bang Michigan của ông sẽ t́m nơi định cư cho bất cứ trẻ mồ
côi nào mà chúng tôi đem về được). Phần lớn công việc của tôi khi ấy
là giúp họ tiếp xúc với Toà Đại sứ và Chính phủ Việt Nam và dường
như là mỗi khi ḿnh sẵn sàng đi th́ lại thấy một người Mỹ hay một
người Việt khác đang muốn bay tới bến bờ tự do như nhóm người
vừa thoát hôm trước.
Tôi ở lại chứng kiến những người Mỹ
mà tôi đưa đi đă tới hết cô nhi viện này tới viện dục anh khác với
lời hứa hẹn cấp cứu. "Đừng lo, chúng tôi sẽ bốc mọi trẻ qua
Mỹ, đưa chúng vào các gia đ́nh tử tế". Nhiều bậc phụ huynh người
Việt t́m gặp những người Mỹ này, van xin họ đưa dùm con cái tới Mỹ
trước khi Cộng sản vào. Ngay giờ này - 35 năm sau - tôi c̣n ứa lệ khi nhớ
tới sự xúc động của những người đă phải mất những ǵ
họ quư nhất - con cái - trong niềm hy vọng là chúng sẽ có một cuộc sống khá
hơn ở ngoài ṿng chiến tranh và cộng sản.
Thế rồi một buổi tối,
những người Mỹ "anh hùng" ấy nghe đồn rằng người Việt sẽ
bắt đầu giết họ v́ bị bội phản. Ngày hôm sau, họ bảo tôi là họ
sẽ bay đi Hong Kong và đợi... đợi ǵ? Đợi t́nh h́nh Sàig̣n sẽ sáng sủa
hơn? Tôi không c̣n nghe thấy ǵ về họ nữa, và những đứa trẻ đă được
hứa hẹn cứu vớt đành ở lại đó - mà lo lấy thân.
Năm trước
đó, tôi đă qua lại Cam Bốt nhiều lần và biết rằng t́nh h́nh nơi đó
c̣n tệ hơn tại Việt Nam. V́ vậy, trong khi dân Michigan đang phối hợp việc
cứu trẻ tại Saigon th́ tôi dành ngày nghỉ qua phối hợp việc cứu trẻ
tại Nam Vang. Tôi có một nhóm mà tụi tôi thời đó gọi là "chiêu đăi viên" (với
loại nghiệp vụ mà tôi không biết, như cho trẻ ăn hoặc thay tă lót) đă t́nh
nguyện giúp đỡ trong các phi vụ C-130 chở gạo tới và hôm sau bốc về Sàigon
một máy bay đầy nhóc trẻ em, thay v́ bay về không. Nhưng Quốc hội ở nhà
đă hạn chế số nhân viên được tới Cam Bốt nên tôi muốn vào là có người
ở đó phải ra để nhường chỗ! Và cả chuyện ấy chỉ là ưu
tiên rất nhỏ.
Trước khi tôi xin được giải tỏa sự hạn
chế này th́ mọi chuyện đều tan tành. Ông George Jacobson, do Đại sứ Graham Martin
yêu cầu bố trí chuyến bay đầu tiên của tôi vào Nam Vang, có lần gửi công văn
tới khách sạn của tôi, rằng phải chấm dứt. Trên đường tới
Sứ quán để nói chuyện với ông ta về vụ này th́ tôi thấy tựa đề
in trên trang nhất của tờ Saigon Post.
Vài ngày sau, tờ Post loan tiếp những chuyện
mà tôi biết trước là sẽ xảy ra....
Mỗi khi thấy một sinh viên Cam Bốt,
Việt Nam hay Á Châu bước lên bục nhận bằng tốt nghiệp, tôi lại cố
gh́m nước mắt. V́ biết rằng nếu ḿnh khéo hơn và sớm hơn, hàng trăm
đứa trẻ Cam Bốt bé tí xíu đă có cơ hội tới Hoa Kỳ và có thể được
giáo dục và có cuộc sống tươi vui. Thay vào đó và nhờ "phong trào ḥa b́nh" và Quốc
hội Mỹ, chúng ta đă bội ước lời hứa long trọng của ḿnh và nhiều
triệu người bị tàn sát.
Tôi thật ân hận. Đă có lúc tôi hy vọng rằng
những kỷ niệm này - cảnh cha mẹ hốt hoảng, lạy van ai đó cứu lấy
con ḿnh trước khi cộng sản vào, những đứa trẻ mồ côi bất lực,
và mấy triệu người mà Hoa Kỳ đă cam kết bảo vệ - cũng sẽ phai
mờ cùng năm tháng. Chuyện ấy không xảy ra, và tôi biết là sẽ đem theo những
h́nh ảnh đó xuống huyệt.
Xin Thượng Đế cứu vớt linh hồn
của các nạn nhân - kể cả 58.196 người Mỹ đă hy sinh đến tuyệt
đối cho một lư tưởng cao đẹp. Xin Thượng Đế hăy ban phước
lành cho những người bị bỏ lại để sống dưới ách độc
tài, và trong nhiều trường hợp, dưới nạn diệt chủng. Và xin Ngài độ
tŕ những người đă đến được xứ này, cùng con cháu của họ,
để trả lại món nợ bội ước bằng cách làm Hoa Kỳ là một nơi
đáng sống hơn cho mọi người trong chúng ta.
Nhưng, nếu có một chút
công lư th́ những kẻ như John Kerry, Ted Kennedy, Franck Church, Clifford Case, J. William Fulbright và một
lũ khác nữa, sẽ phải mục nát dưới Địa Ngục. (Tôi xin lỗi. Có
lẽ v́ quên mất lời nguyện của ḿnh).
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
|
|