Subject: |
Quân phục, Cấp hiệu, Huy Hiệu, Huy chương từ Quân Đội
Quốc Gia đến Quân Lực VNCH |
|
Author: |
hoalê |
|
. . . . .
Quân Phục, Cấp Hiệu, Huy Hiệu,
Huy Chương từ Quân Đội Quốc Gia đến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Nguyễn
Đ́nh Phúc
Sau 30 tháng 4, 1975, chủ quyền đất nước mất vào tay Cộng Sản
(Việt Cộng và CS Nga, Hoa), Chánh Quyền và Quân Lực VNCH không c̣n nữa. Ngày nay dù phải
xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lư tưởng, chánh nghĩa người
chiến sĩ một đời theo đuổi vẫn c̣n đó, Tổ Quốc- Danh Dự
- Trách Nhiệm vẫn c̣n đó, Quê Hương- Dân Tộc vẫn c̣n đó. Con đường
tranh đău hôm nay dù mang một h́nh thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đău
cho nền Độc Lập, Dân Chủ, Tự Do thực sự, cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng
muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng định: chúng ta không bao giờ
quên được Tổ Quốc, Đồng Bào v́ khi vừa nghe tin những quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc... vừa bị ‘bạo
quyền cắt đất cầu phong’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp
đoạt, dâng hiến... tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng vùng lên... Điều
này chứng tỏ chúng ta vẫn măi măi là chiến sĩ VNCH.
Ngày mai, khi công cuộc tranh
đău dành lại được chủ quyền từ tay CS cho toàn dân, nền đệ tam
Cộng Ḥa được thiết lập, Quân Lực VNCH được tái tổ chức
th́ câu chuyện về quân phục, cấp hiệu, phù hiệu... hôm nay chẳng là câu chuyện
phiếm, cũng một trong trăm ngàn tài liệu cần đến.
Từ hơn hai
ngàn năm trước, Đức Khổng Tử đă nói đến tầm quan trọng
của nhung phục, đại ư Ngài dậy: ‘người tráng sĩ tự ḿnh chưa
đủ oai dũng khi lên yên chiến mă nếu như thiếu nhung y, giáp trụ, thiếu
cờ hiệu, cờ lệnh...’ Bài viết xin được các chiến hữu, độc
giả bổ sung, tha thứ v́ hầu như hoàn toàn dựa vào trí nhớ giới hạn, nhận
xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện ‘lính kể lính nghe’ trong
những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị ‘cháy’.
Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long (ngày 5 tháng 6, 1948) được kư kết giữa
đại diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của
Quốc Trưởng Bảo Đại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước
Việt Nam được Độc Lập, Thống Nhất nhưng vẫn c̣n nằm trong
Liên Hiệp Pháp (LHP). Quân Đội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng
thực tế mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến
đấu chống Việt Minh (CS) bên cạnh quân đội LHP. Cho đến những năm
đầu thập niên 50, Bộ Tổng Tham Mưu (TTM) Quân Đội Quốc Gia vẫn c̣n
nhiều Sĩ Quan (SQ) Pháp làm việc, nhiều đơn vị do SQ, HSQ Pháp chỉ huy, quyền
chỉ huy tối cao c̣n thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur
(tiểu khu, chi khu chiến) của Pháp tại địa phương. Sau đó một số
khu vực mới lần lần được trao trách nhiệm lại cho Quân Đội
Quốc Gia (QĐQG) như những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn
thư, danh xưng c̣n dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S.P (secteur postal) thay
v́ Bộ TTM hay K.B.C. Trong hoàn cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu...
tương tợ như quân đội Pháp. Trên toàn lănh thổ có 4 quân khu: Đệ Nhất
Quân Khu (miền Nam), Đệ Nhị (miền Trung), Đệ Tam (miền Bắc), Đệ
Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/ Sơn Cước). Lực lượng chính yếu
gồm các tiểu đoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien), tiểu đoàn Nhẩy Dù... Bên cạnh, chánh
quyền địa phương cấp Phần, đứng đầu bởi vị Thủ
Hiến có tư cách pháp nhân riêng, ngân sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính Đoàn
(Bắc), Việt Binh Đoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh (Nam), Vệ Binh Sơn Cước,
Ngự Lâm Quân, và những lực lượng giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên...
Quân
Phục
Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục.
Vào những năm đầu, quân phục chưa qui củ, luộm thuộm v́ ngay cả quân
phục quân đội Pháp cũng không hơn. Nhiều quân nhân mặc chemise vàng, quần trận
(loại có túi rộng ngang đầu gối). Đến khi QĐQG chính thức thành lập
(giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc
Pḥng Phan Huy Quát), quân phục mới được qui định tề chỉnh hơn. Lễ
phục SQ ngoài mầu trắng, có mầu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ
phục mầu nào th́ phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh, không kể mầu đỏ
dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các pḥng sở, ra khỏi doanh trại (số
2) ‘gabardine’ hay ka-ki, ‘béret’ cùng màu vàng xám (trừ Nhẩy Dù đỏ, Thiết
Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) mầu xanh ‘olive’,
riêng Nhẩy Dù thêm áo ‘sô’ (saut) trông rất oai hùng.
Tới thời đệ nhất
Cộng Ḥa đại lễ phục SQ rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao, cúc
(nút) vàng, thắt lưng đen, ‘casquette’ trắng, quần sậm, có sọc như
các quân trường, có cả dạ phục. C̣n tiểu lễ, quân phục số 2 mầu
vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa. Nhớ lại sau hiệp định đ́nh
chiến 54, quân nhân ra phố mặc đồ tác chiến sẽ bị tuần cảnh bắt
giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại quân phục vàng lần lần
vắng bóng ngoại trừ SV hay khóa sinh quân trường.
Chuyện trang phục của
chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất
là từ cấp tướng lănh. Một đại tướng v́ gốc Dù nên mặc đại
lễ thay v́ đi ‘casquette’, ông vẫn ‘sính’ đi ‘beret’ đỏ.
Một vị lănh đạo quốc gia, v́ gốc phi công ‘anh dũng muôn đời’
nên cứ diện phi bào với hai sao để cho tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm
một tướng biệt phái sang hành chánh thường mặc đồng phục bốn
túi kiểu cán bộ, gặp tổng thống hay thủ tướng lại móc ngay 3 sao trong
túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một đô đốc,
quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong quân chủng... Vẽ lại
vài ba h́nh ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi v́ thời phong kiến đă có câu ‘luật
không áp dụng với người tôn’ nên nhằm nḥ ǵ chuyện nhỏ, các vị tùy tiện
có chi đâu.
Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở quân đội HK: ‘ngoài
qui định, từ thống tướng tới binh sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu
một qui định ǵ so với đồng ngũ, đồng cấp’. Sự đồng
nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo
tay cũng không khác nhau. Chắc các chiến hữu c̣n nhớ chuyện một vị tướng
HK, ông đă đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người
chê sai, người bênh vực đúng nhưng ông vẫn tự sát v́ sự kiện này. Tất
nhiên qui tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động v́ mục đích chung nào đó.
Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy
trang, nhưng trong dịp quốc khánh, kỷ niệm quân lực... các đơn vị mặc
chiến phục diễn hành vẫn đeo đầy đủ cấp hiệu, dây biểu
chương, huy chương tḥng... để thêm oai dũng khác ngày thường. Khi mới
thành lập, chúng ta c̣n đi giầy đinh (có đinh ở đưới) gọi giầy
‘săng đá’ (do chữ Pháp soldat - quân nhân), bước đi gây tiếng cồm
cộp. Những toán hầu kỳ, chào kính c̣n mang ‘ghệt’ (guêtre) trắng bằng
da hay vải bố để túm ống quần lại cho gọn, đẹp.
Hành quân
dùng giầy bố. Sau này dùng giầy ‘sô’ (botte de saut) cột dây, có nhiều loại
khác nhau. Những quân nhân nhân nào diện c̣n cắt ống giầy gắn ‘fermeture’,
nhưng khi đổi giầy có thể bị phạt v́ làm hư quân trang. Giống như
một Quận kiêm Chi Khu Trưởng v́ nhu cầu an ninh đă sơn xe Jeep mầu dân sự,
khi đổi xe đă phải phạt và đền tiền sơn lại như mầu nguyên
thủy. Những năm sau này, thêm nhiều quân binh chủng được thành lập nên
ngoài chiến phục của bộ binh, có nhiều kiểu và mầu sắc đặc thù
riêng rất oai hùng như phi bào (KQ), quân phục trắng (HQ), Dù, TQLC, BDQ... Đây cũng là một
trong những nét khác biệt của từng mầu cờ sắc áo. Sau 75 trong tù cải tạo,
anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính VC phát quân phục của
chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc
hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất ‘rét’, bị ám ảnh
khi thấy h́nh bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển... chẳng khác nào theo Bảo
Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh: ‘nhiều cán binh sống sót về lại miền
Bắc không dám đứng dưới quạt trần v́ c̣n ngỡ cánh quạt trực thăng
săn đuổi.’
Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều.
Xưa kia, mũ ‘béret’ kaki vải rất rộng (miền Bắc gọi mũ bánh
đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ ‘calot’ xám, đen, trên đỉnh
xẻ đôi có hai mầu xanh đỏ lớn hơn KQ. Mùa nắng đi ‘chapeau de brousse’
mũ vải cứng rộng vành (hơi giống quân nhân Úc), một bên vành mũ bấm gọn
lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời cộng ḥa, ‘béret’ xám đi
theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tṛn khác mầu tùy mỗi hàng binh sĩ, HSQ,SQ.
Sau đảo chính 63, thường mặc ‘tréllis’ nên mũ vải lúc đầu cứng
(như képi), sau như ‘casquette’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘làm dáng’ tay mũ
cũng gắn nhành dương liễu như ‘casquette’ đại lễ.
Mũ
sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng
lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như BĐQ
cũng tiện. Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên
nắp túi áo phải quân phục số 2, không kể cấp hiệu, phù hiệu được
mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cập phần sau. Chỉ
riêng việc này đă làm mất tính bí mật quân sự. Địch dễ dàng nhận diện
hay trên xác tử sĩ để lại chiến trường đủ t́nh trạng quân vụ
(đơn vị, cấp bậc...) ngoài những cáo phó, chia buồn, góp vui đầy trên báo
chí. Ngoài cổng doanh trại ghi đủ hệ thống thống thuộc, đơn vị
đồn trú. Trong khi VC đến khi chiếm trọn miền Nam, trước cổng cũng
chỉ có tấm bảng ‘doanh trại quân đội nhân dân’. Như vậy bài học
vỡ ḷng ‘che dấu, ẩn nấp’ để ‘ta thấy địch, địch
không thấy ta’ trở thành hài hước.
Cấp Hiệu
Cấp hiệu là qui ước có h́nh thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng
biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp. ‘Huynh đệ
chi binh’ là mối tương quan trong đời quân ngũ, nhưng trong hệ thống
quân giai, chỉ khác một vạch, mầu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp
phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.
Từ
khi thành lập quân đội QG, cấp hiệu được gọi bằng ‘lon’
(galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Ḥa được
thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp
hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á
phiện, sách báo khiêu dâm... Đây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại
giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp. Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên
cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘lon’ Sỉ Quan, ngoại trừ
thiết giáp binh (kỵ binh) dùng vạch trắng. Từ ‘adjudant’ (ông ‘ách’)
đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc,
‘aspirant’ (chuẩn úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp tá vẫn
dùng vạch. Tiếng Việt, lúc đó chúng ta thường gọi quan Một quan Hai... Tới
quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sỉ Quan cao
cấp (officier supérieur), dưới đó chỉ là Sỉ Quan cấp thấp (officier subalterne).
Trên quan Tư có quan Năm khoanh trắng (lieutenant colonel) với 5 vạch (3 vàng, 2 trắng)
và quan Năm khoanh vàng (colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao
trở lên). Hạ Sỉ Quan và binh sĩ mang vạch h́nh chữ V ngược vàng, đỏ
nơi cánh tay.
Người viết không rơ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc
Pḥng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ,
Thượng Sĩ xuất xứ từ lực lượng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt)
đặt ra trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp SQ Bảo Chính Đoàn trong khi
SQ chánh qui vẫn c̣n đeo ‘lon’ hoàn toàn như SQ Pháp. Xin được mở dấu
ngoặc nói thêm về cấp hiệu của BCĐ/BV. Bảo Chính Đoàn là lực lượng
quân sự cấp Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ
huy hoàn toàn Việt Nam, không có một SQ hay HSQ Pháp nào. Tư Lệnh Phó BCĐ (có lúc gọi Phó
Giám Đốc) là Đốc Quân Đoàn Chí Khoan (sau này là Đại Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng
Phát Triển Sắc Tộc). Ông Đoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo
sơ đồ tổ chức BCĐ, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù
hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức quân đội Trung
Hoa (QDĐ) và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Đốc Quân và Phó Đốc Quân
cho SQ cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có ba hạng: Phó Đốc Quân hạng ba, hạng hai và
hạng nhất. (tương đương Thiếu Úy, Trung Úy, Đại Úy), và Đốc
Quân cũng có 3 hạng. Trên hết là Chánh Đốc Quân (như cấp Tướng, nhưng
chưa có ai được phong). Tư Lệnh BCĐ đầu tiên là Đốc Quân hạng
2 Hoàng Văn Tỷ (sau này là một trong 6 đại tá đầu tiên của QĐQG), Tư
Lệnh Phó là Đốc Quân hạng 3 Đoàn Chí Khoan, Giám Đốc trường SQ/BCĐ
là Đốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng QLVNCH).
Đốc
Quân và Phó Đốc Quân đều đeo hoa Mai bạc (hạng 3 một bông... hạng nhất
3 bông) nằm trên vạch ngân tuyến. Cấp Đốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy
kèm song song hai bên. Kể cả hàng binh (Bảo Chính Viên) trở lên đều đeo trên vai,
nhưng là sợi ngân tuyến, theo hinh chữ V. Điểm đặc biệt là danh xưng
Hạ Sĩ, Trung Sĩ và Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và
sau này vẫn c̣n được dùng. Riêng danh xưng Đốc Quân, Phó Đốc Quân không được
duy tŕ v́ không thuận tiện (nếu chỉ gọi Đốc Quân sẽ không rơ cấp bậc,
gọi thêm hạng lại quá nhiêu khê).
Nhân đây, xin nói về truyền thống, ư nghĩa
cấp hiệu. Từ xưa có 3 quân binh chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống
quốc tế v́ thường có tầm hoạt ngoài lănh thổ, phải theo nhiều luật
lệ hàng hải, hàng không gồm hải quân, không quân, thiết giáp binh và lực lượng
cảnh sát. Không hiểu lư do nào, khi qui định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ
chỉ riêng hải quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp
hiệu theo như quân đội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đă có tổ chức
qui củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập
Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên... đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều
SQ và có lẽ để tiện việc sắp đặt chức vụ, đă dùng theo cấp
bực QLVNCH, bỏ qui chế, cấp hiệu cũ, không quan tâm đến thời gian huấn
luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng tŕnh độ văn hóa và thời gian
thụ huấn như một chuẩn úy bộ binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp
Đại Úy CSQG. Ngoài ra dù mang cấp bậc như quân đội, CSQG cũng không có thẩm
quyền ǵ với quân nhân lại tạo cho dư luận, CS dễ chỉ trích ‘quân phiệt’,
‘cảnh sát trị’ trong khi chính bộ máy ḱm kẹp, phá hoại của VC có tới
cấp Bộ Công An.
Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng
quân sự địa phương chính quy hóa, Bảo An Đoàn mang cấp hiệu riêng như
Bảo Chính Đoàn Bắc Việt trước kia. V́ thiếu thống nhất nên dễ ngộ
nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh,
trông vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhánh lúa ôm hai bên trông như hai
nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát sĩ quan đồng minh kể cả cấp Tá
cũng như huấn luyện viên, một điều ‘Yes, Sir’ hai điều cũng
‘Yes, General’ với Thiếu Úy và c̣n chào kính ‘túi bụi’ v́ nghĩ thầm ít
ǵ cũng Chuẩn... Tướng.
Trở lại cấp hiệu SQ thời đệ
nhất cộng ḥa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mai vàng, nhưng từ xa khó nhận
ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng
Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) v́ muốn cho Hội Đồng
Tướng Lănh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp ‘tướng
trẻ’ dễ dàng khống chế lớp ‘tướng không trẻ’ hoặc dễ
áp lực cho đi ‘đại sứ’. Đó là thời ‘loạn tướng’.
Đề cập đến ‘loạn tướng’ thiết nghĩ phải nói đến
qui chế Tướng Lănh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đă bước
lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đă bỏ binh
quyền, đời quân ngũ. V́ vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng,
Cựu Thiếu Tướng... mà là Trung Tướng NVT, cựu Tổng Thống VNCH, Thiếu
Tướng NCK, cựu Phó Tổng Thống.... Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải
ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lănh, chỉ
thêm chữ Hồi Hưu như General Westmoreland (Ret). Quân đội vẫn phải đăi ngộ
Tướng Lănh với đầy đủ qui chế, nghi lễ: lương bổng, quân
phục, cấp hiệu, tướng kỳ, tùy viên, hộ tống, chào kính... ngoại trừ
binh quyền.
Ngoài ra, tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp
hiệu, phù hiệu của các lực lượng đồng minh tham chiến tại VN trước
kia. Ngoài những ǵ theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với hải quân,
cánh bay không quân, chữ thập quân y... có những đặc thù riêng như khối Liên Hiệp
Anh (Úc, Tân Tây Lan...) với vương miện (Crown), Thái Lan trọng bảo tháp (Phật), dành
cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.
Nhiều người khen quân quân phục HK đẹp,
qui củ nhưng cấp hiệu không ư nghĩa. Thật ra, HK lấy biểu hiệu từ
thấp lên cao cấp Thiếu và Trung Úy đeo vạch vàng, trắng và Đại Úy 2 vạch
trắng là kim loại c̣n nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với
lá vàng, trắng. Đại Tá đeo h́nh chim đại bàng, tung cánh trời cao, đầu đàn...
(thường dùng danh hiệu đại bàng). Ngôi sao sáng hàng Tướng Lănh mang biểu hiệu
cao tột đỉnh, dẫn đạo, chỉ huy.
Ngược lại thời gian
mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại
lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược
trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hinh chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu
cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (SQ, HSQ cao cấp), c̣n
hàng HSQ cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu
thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại quân đội Pháp c̣n qui định
những tướng lănh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu binh nhất,
hạ sĩ, trung sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Đại tướng De Lattre,
được đeo thêm cấp hạ sĩ nhất danh dự, Trung tướng Cogny thêm
cấp hạ sĩ. Đây là qui định chính thức như chức Huyện, Phủ hàm
thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là hạ
sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức
Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các đại đơn vị (commandant en chef/ commander-in-chief)
thay v́ Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa ‘tư lệnh’ nói lên sự toàn quyền
ban phát lệnh thay v́ chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp chỉ
huy trưởng.
Huy Hiệu, Huy Chương
Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rơ đơn vị trực thuộc.
Nhiều khi c̣n dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu
cờ sắc áo, hoặc các ‘nơ’ màu để dễ nhận bạn. Thời phôi
thai, quân đội mới có đến cấp tiểu đoàn, nên phù hiệu đeo dưới
nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra c̣n được
làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc...).
Các quân trường Vơ Khoa Thủ Đức, Liên Quân Đà Lạt... cũng có phù hiệu riêng,
nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các đại
đơn vị, binh chủng... phù hiệu bằng vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng
trước ngực dành đeo phù hiệu đơn vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta
c̣n đeo thêm các bằng chuyên môn... như bằng Rừng Núi Śnh Lầy, bằng Dù, cánh Bay...
Quân đội có nhiều h́nh thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn đơn
vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ
có Croix de guerre, Médaille d’honneur... của Pháp, nhiều loại được lănh phụ
cấp hàng tam-cá-nguyệt. Sang thời chính thể QG, Quốc Trưởng ban thưởng
Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với năm hạng,
trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp
thưởng rất khó khăn đ̣i hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn
lao đối với tổ quốc, dân tộc. Nghi thức trao gắn rất long trọng,
quân nhạc cử điệp khúc quốc thiều, người được ân thưởng
tay nâng huân chương để nguyên thủ quốc gia chào kính.
Nếu phạm trọng
tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội
có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Đối với hạng nhất,
nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng
là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh danh dự Ngự Lâm Quân. Kế là Đại
Tướng De Lattre, Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh quân đi LHP tại Đông Dương,
nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần
mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng đệ nhất
đẳng. Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Đại
Tướng và truy tặng đệ nhất đẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội
Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với nhành dương liễu và sao vàng, bạc,
đồng do sự khác biệt giữa SQ, HSQ, BS về chiến công và phạm vi tuyên dương
trước quân đội hay chỉ trước cấp Lữ Đoàn, Sư Đoàn. Ngoài
ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của quân đội, chiến trận gia tăng
rất nhiều huy chương thuộc các quân binh chủng được ban thưởng.
Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ,
Chiến Thương... chưa kể huy chương của nhiều quốc gia, quân lực
đồng minh cũng trao tặng.
Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang
tên mầu: Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương mầu
Tam Hợp. Để được tưởng thưởng mầu Tam Hợp đ̣i hỏi
toàn thể đại đơn vị phải lập chiến công và ít nhất phải được
tuyên dương công trạng cấp quân đội từ 3 lần trở lên.
Huy chương
khi được ban thưởng, ngoài văn thư có một bằng treo, không kể huy chương
(tḥng, ngắn). Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức qui định.
Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực trái ra ngoài, hàng trên xuống
dưới. Riêng Bảo Quốc Huân Chương, đệ ngũ và tứ đẳng dù thấp
nhất trong Bảo Quốc nhưng vẫn phải xếp trên cùng, đệ tam đeo dây
ṿng qua cổ, đệ nhị một bên cạnh sườn và đệ nhất vắt
ngang vai. Trong tiểu lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ
có phần cuống). Với dạ phục mang huy chương tḥng nhưng thu nhỏ. Các dây
biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng
khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các quân, binh chủng, đại đơn
vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đă được
ban thưởng. Với huy chương của các quốc gia đồng minh, phải có sự
chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, quân nhân đương
sự mới được mang.
Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu... v́ không
được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn
kém cho quân nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành...
Nghi Thức Chào Kính
* Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh chào Quốc, Quân Kỳ (Quân phục TQLC,
dây Biểu Chương, chào súng kiểu mới).
* Nghênh đón Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh (đệ I Cộng Ḥa) do Bộ
Trưởng Phụ Tá Quốc Pḥng, Tướng TTMT, Tướng Chỉ Huy buổi lễ.
* Quốc Khánh thời ‘loạn tướng’, đại lễ phục rất
tùy tiện.
Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều
cách thức chào kính như: chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện,
hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian. Theo một số tài liệu, chào tay phát
xuất từ xa xưa ở Tây phương. Khi gặp Vua Chúa, quan quyền thần dân, thuộc
hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không được thấy, cùng bày
tỏ cung kính và tay không vơ khí. Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước
Thiên Tử ở Đông phương. Đến giữa thập niên 50, số SQ cũng c̣n
rất ít. Ngay tại Bộ TTM, một thiếu úy ra vào cổng chính, lính gác đă phải đứng
nghiêm, từ trung úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc binh sĩ không đủ
thời gian đem súng xuống. Tại các đơn vị, từ cấp đại đội
trưởng (thiếu úy hoặc trung úy) mỗi khi ra vào cổng, toán binh sĩ trực đă
phải dàn chào dưới sự chỉ huy của đốc canh.
Thời trước,
binh sĩ chào súng theo kiểu Pháp: súng dọc thân ḿnh phía phải, tay phải đỡ đế
súng, bàn tay trái khép để trước súng, ḷng bàn tay úp xuống mặt đất. Với
tiểu liên, ṇng súng quay sang trái. Riêng Bảo Chính Đoàn (BV), súng vác vai, tay trái đặt ngang
báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước, giữa
thân ḿnh. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng, M16 loa che lửa ngang tầm mắt.
Nếu mang vai, tay trái giữ dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác th́ bộ máy c̣ sát
vai (ngược lại kiểu xưa, ngửa lên trời), mặt ngước về thượng
cấp. Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay mang xách, hoặc ngồi xe hai bánh,
thuộc cấp chào kính bằng cách ‘hất mặt’ về cấp chỉ huy. Vào CLB,
nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù tŕnh diện cấp trên cũng chỉ
đứng nghiêm (không chào nữa).
Khi SQ vào pḥng, quân nhân cao cấp nhất thấy trước
sẽ hô: ‘phắc’ hay ‘vào hàng phắc’ đối với từ cấp trung
tá (đơn vị trưởng) trở lên. Khi thượng cấp dời khỏi pḥng chỉ
hô ‘nghiêm’. Khi hô ‘vào hàng phắc’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy
(xạ thủ về trước súng, âm thoại về trước máy...). Nhân đây xin kể
lại chuyện một lần chào kiếm trong lễ măn khóa của sinh viên Thủ Đức
dưới sự chủ tọa của Quốc Trưởng PKS. Như thông lệ, Thủ
Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong, đằng sau quay rồi tuốt gươm
chào. Bài bản đúng chỉ có vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi
lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ, nhà lănh đạo gốc dân sự,
chưa quen nghi lễ quân cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay sinh viên thủ
khoa. Phần này không dự liệu nên anh thủ khoa hốt hoảng vă mồ hôi, nhất là
nh́n tay Quốc Trưởng đă đưa ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp
chuyền kiếm sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng, trong
khi tay trái cầm cây kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ, anh được lănh ngay lệnh
phạt gia tăng từ ĐĐT lên tới Tướng CHT với lư do ‘chào kính nguyên
thủ sai qui cách’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được bắt tay).
Chuyện
sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều
SQ cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy tỉnh, quận vào các dịp cúng
tế tại đ́nh, miếu đă rất lúng túng hoặc hành xử sai qui cách. Có ông đứng
vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương,
biểu chương...có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người
viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đă cố giải
thích: ‘với quân nhân, cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng quốc
kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo quân cách. Quân đội không dự trù có trường hợp
quân nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các SQ tỉnh, quận
trưởng, cho dù với tư cách thượng khách, khi được mời lên chiêm bái,
chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay v́
các động tác này không hề có theo quân cách). Việc cử hành lễ hoàn toàn là quyền
hạn và trách nhiệm của ban hương chức. Nếu muốn bầy tỏ cung cách
nào khác hơn, hăy mặc thường hay quốc phục.’ Không biết ư kiến các niên
trưởng ra sao?
Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu... rất
dài, phức tạp. Đủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc
Pḥng, TTM hay toàn thể chiến hữu chứ đâu phải do một anh lính ‘tốt đen’.
Tuy vậy đă là lính từng biết hô lớn câu ‘tan hàng! cố gắng!’ nên cuộc
đời ‘cố gắng’ đă quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai
cứ miệt mài ngồi bên bàn máy. Nh́n lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói
rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng
Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Điều này sao tránh v́ chúng ta phải nhận viện trợ,
yểm trợ của đồng minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.
Ngày
mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh th́ mọi
điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù
hiệu... chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do ḿnh chọn từ chiến công, h́nh ảnh
ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Đằng, mũi khoan Yết Kiêu
(hải quân, người nhái), ngựa sắt Phù Đổng (thiết kỵ), ḷ đúc Cao
Thắng (quân cụ), nỏ thần An Dương Vương (pháo binh), Loa thành (công binh), lá
khô thấm mật Nguyễn Trăi (tâm lư chiến)... kể sao cho hết. Người viết,
một khinh binh VNCH, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào quốc kỳ tượng trưng cho
Tổ Quốc, chào Quân kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng
cho Quân Đội. Kính cẩn nghiêng ḿnh trước anh linh anh hùng liệt sĩ, chiến hữu
đă hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến chiến hữu, độc
giả.
Nguyễn Đ́nh Phúc
* Người viết chân thành cáo lỗi đă không
có điều kiện để xin phép tác giả những tấm h́nh in trong bài. Mong rằng
với mục đích tôn vinh tập thể quân đội, xin được thông cảm,
miễn thứ.
This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
| |
|