Tác giả/Nhân vật: Trương Đăng Sỹ
|07-12-2011
Kính gởi Niên Trưởng Giao Chỉ (San Jose)
Nhân đọc được
bài “Trong đêm đen chợt thấy ánh mặt trời” của Niên trưởng,
tôi đă quyết định cầm lại cây bút. Nặng nề, đắn đo, suy nghĩ
suốt mấy đêm liền ……..Sau cùng tôi thấy ḿnh có trách nhiệm phải nói
lên một sự thật của lịch sử và nhất là vinh danh những chiến hữu,
những đệ tử thâm t́nh đă vĩnh viễn nằm xuống bên bờ Cổ thành
Đinh Công Tráng (Quảng Trị) vào mùa Hè đỏ lửa 1972.
Ngắn gọn để
tự giới thiệu với Niên trưởng, tôi là cựu Thiếu Tá Trương Đăng
Sỹ, xuất thân Khóa 21 Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam Dalat, Đại Đội
trưởng Đại Đội 51 Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, được Trung Tá Nguyễn
Chí Hiếu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 trao trọn trách nhiệm tổng
chỉ huy điều động lực lượng tiền phương tiến chiếm
Cổ thành Quảng Trị vào năm 1972. Hiện nay, tôi đang sinh sống tại Sydney, Australia. Với
tư cách và danh dự của một Sĩ quan xuất thân từ trường Vơ Bị, tôi
dám quả quyết với các niên trưởng rằng tôi sẽ nói hoàn toàn sự thật sau
đây v́ nó có tính cách lịch sử, mà theo tôi lịch sử phải là sự thật, đó
là chân lư, đừng bẻ cong ng̣i bút, đừng che dấu và đừng đánh bóng cá nhân,
nhất là những người không trực tiếp tham dự cuộc chiến.
Tôi được
tham dự tất cả những trận đánh lừng danh trong quân sử của Việt
Nam Cộng Ḥa, từ năm 1966 măi đến ngày mất nước 30/4/1975. Với tư
cách là một sĩ quan thuần túy tác chiến, đi bộ, cầm bản đồ, địa
bàn, tay bấm Combiné từ Campuchia qua Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, có thể nói chưa
bao giờ thất bại, nhưng chua cay và gay cấn nhất là Cổ thành Đinh Công Tráng
(Quảng Trị). Sau đây là diễn tiến trận đánh.
Tôi đồng ư với
Niên trưởng ở điểm là hôm nay làm thế nào chúng ta phải có bản đồ
trận liệt Quảng Trị, cũng như phóng đồ Hành quân tái chiếm Quảng
Trị. Nếu không chúng ta cũng c̣n lẩn quẩn trong những nét đại cương.
Nói
riêng về trận tái chiếm Quảng Trị, tôi biết có rất nhiều người
yêu cầu cũng như mong muốn tôi phải lên tiếng, nhất là bên ban quân sử Mũ
Đỏ. Nhưng tôi vẫn im lặng, im lặng gậm nhấm tất cả những
đau thương chua chát. Im lặng để tôn trọng những người viết trước
– những vị này đều không trực tiếp tham dự trận đánh. Từ Phan
Nhật Nam, Trương Dưỡng, Trịnh Hữu Ân, đến Kiều Mỹ Duyên trong
Chinh Chiến Điêu Linh ………. Chỉ có một bài làm tôi để ư là bài của
Đại úy Hồ Tường, Đại Đội trưởng Đại Đội
52 trong Đặc san Mũ Đỏ, nhưng rất tiếc Hồ Tường cũng bị
thương sớm, hơn nữa là đàn em nên tôi hiểu rất rơ Hồ Tường đầy
đủ khả năng uống rượu, quậy phá và đánh giặc hơn là khả
năng viết lách. Đại úy Trương Văn Út (Út Bạch Lan) cũng trường
hợp tương tự.
Tôi rất mong lá thư này đến trước khi cuốn
phim tài liệu về trận đánh mà quư Niên trưởng sắp thực hiện, mục
đích là vinh danh các chiến hữu đă nằm xuống bên bờ Cổ thành, vinh danh Binh
chủng Nhảy Dù đă đổ quá nhiều xương máu cho một mục tiêu mà quả
là cục xương khó nuốt, nhưng lại ảnh hưởng quá lớn trên trường
chính trị. Ước mong quư Niên trưởng tôn trọng máu xương của các chiến
hữu và máu của cả tôi đă đổ quá nhiều cho cuộc hành quân này. Tôi có tật
bẩm sinh trong đời binh nghiệp là không tranh giành chiến công v́ quan niệm tất cả
là của chung, của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cũng như không đổ lỗi
cho bất cứ một thất bại nào.
Trở lại diễn tiến cuộc hành
quân, ngày N có lẽ là ngày 28/6/1972, sau hai tháng tử thủ An Lộc, Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù được không vận ra phi trường Phú Bài Huế để nhập cuộc. Toàn
bộ Sư Đoàn tiến theo Quốc lộ 1 qua Hải Lăng, Triệu Phong, vượt
qua Đại lộ kinh hoàng tiến về hướng La vang thượng. Qua bao nhiêu ngày
tiến quân, dưới sự yểm trợ tối đa của phi pháo và đầu đội
mưa pháo của địch quân, Đại Đội tôi cũng vào được Nhà Thờ
La vang và tạm ngủ tại nghĩa trang một đêm để sáng hôm sau tiến
chiếm mục tiêu làng Như Lệ.
Nhưng sáng hôm sau, tôi được lệnh bàn
giao khu vực La vang lại cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu tá Lê Văn Mễ
băng qua Quốc lộ 1 và tiến về hướng làng Tŕ Bưu để từ đó
làm bàn đạp tiến thẳng lên Cổ thành Đinh Công Tráng.
Tôi nhớ rơ đêm hôm
đó, trong tiếng pháo ầm vang của ta và địch, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu cho họp
Ban Tham mưu và các Đại đội trưởng để ban lệnh hành quân mới.
Bên cạnh bản đồ và sa bàn Cổ thành Đinh Công Tráng, Trung tá Hiếu cho biết Tiểu
Đoàn 5 được vinh dự nhận nhiệm vụ bằng mọi giá phải chiếm
lại cho bằng được Cổ thành. Sau khi phân tích t́nh h́nh địch và bạn, phân
chia nhiệm vụ, Trung tá Hiếu trịnh trọng hai tay cầm lá Quốc Kỳ trao cho tôi
và ông nói:
- “Đây là tất cả vinh dự của Quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa và của Binh chủng Nhảy Dù, tôi đặt tất cả tin tưởng vào anh. Cố
gắng hoàn thành nhiệm vụ, tất cả tiền quân đặt dưới quyền
điều động của anh.” Tôi đưa hai tay nhận lá Quốc Kỳ nửa
hănh diện, nửa lo âu. Nói có vong linh Trung tá Hiếu: ông đă đặt tôi vào cảnh c̣n
hơn Thái tử Đan, tiễn Kinh Kha qua sông Dịch.
Trong phiên họp, ông c̣n đề
nghị dùng dây để leo lên thành, đánh như lối La Mă ngày xưa. Sau đó ông trao cho
tôi một cái máy h́nh chữ nhật khoảng 2 tấc x 4 tấc của Mỹ, ông căn dặn
trong trường hợp tuyệt vọng, bấm vào nút đỏ ngay lập tức, Không
lực Hoa kỳ và hải pháo từ Đệ thất hạm độ sẽ hủy diệt
mục tiêu, kể cả quân bạn. Cho đến hôm nay tôi vẫn chưa hiểu đó là
chiếc máy ǵ? Sau này, có lúc gần như tuyệt vọng tôi định đem ra xử dụng,
nhưng nghĩ c̣n đến bao nhiêu sinh mạng dưới tay, sinh mạng của con người
đó! Ngần ngại rồi lại thôi. Đêm hôm đó, không thể nào chợp mắt. Tôi
chưa bao giờ từ chối bất cứ nhiệm vụ nào, nhưng linh cảm phải
hy sinh rất nhiều xương máu “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Nỗ
lực chính đi đầu là hai đại đội 51 và 52. Sau hai ngày di chuyển ngày đêm,
vượt qua một con sông nhỏ, trước mặt là cánh đồng trống, bên kia
cánh đồng là làng Tŕ Bưu. Tôi biết trong làng địch quân bố trí chờ sẵn…lực
lượng không biết bao nhiêu nhưng có cả 12 ly 8, cối 61 và 82 ly.
Đặt ống
ḍm nh́n mục tiêu làng Tŕ Bưu, tôi gọi Hồ Tường đến ra lệnh cho một
trung đội thật mỏng chiếm nghĩa trang giữa cánh đồng làm bàn đạp.
Điều chỉnh xong phi tuần A37 xuống đúng mục tiêu, xin thêm 20 tràng (T.O.T = Time
on Target). Sau đó là mười tràng đạn khói bao trùm làng Tŕ Bưu. Liền sau đó, xử
dụng 3 trung đội hàng ngang xung phong cộng với 2 trung đội sẵn sàng tiếp
ứng. Binh sĩ vừa bắn vừa hô xung phong, đẹp hơn ciné chiến tranh.
Chịu
không nổi hỏa lực khủng khiếp của phi pháo ta, địch tháo chạy bỏ
lại chiến trường 6 xác chết mặc đồ kaki Nam định, chân dép râu, đầu
đội nón cối. -“Tŕnh 501, tịch thu 1 khẩu 12 ly 8, 1 cối 82 ly và một số
AK47 và B40 ……” - “Tập trung lại tại chổ, tất cả bung rộng
lục soát, cẩn thận tối đa.” - “Nhận rơ 501, 5 trên 5.”
Từ
làng Tŕ Bưu, về hướng Tây Bắc, mục tiêu kế tiếp là Nhà Thờ Tŕ Bưu.
Tôi và Hồ Tường song song bung đội h́nh từng bước tiến lên, nhường
làng Tŕ Bưu lại cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. Đoạn đường từ
đây đến Nhà Thờ Tŕ Bưu khoảng vài trăm thước cũng không phải
dễ đi … Tôi đă xử dụng tất cả hỏa lực yểm trợ: 18
khẩu 105 ly, cơ hữu Nhảy Dù, 4 khẩu 155 ly, 2 khẩu 175 ly của Quân đoàn 1…
Ngày
nào cũng có ít nhất hai phi tuần oanh tạc. Ban đêm, thỉnh thoảng c̣n được
hải pháo từ Đệ nhất hạm đội bắn yểm trợ. Nếu cần
thiết, c̣n được 18 khẩu 105 ly của Thủy quân Lục chiến tăng cường.
Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai lần bắn “T.O.T”.
Có lúc chúng tôi phải
tiến quân trong mưa bụi của pháo binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu
khỏi hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ Tường
tiến tới từ 50 đến 100m th́ dừng lại bố trí, 51 tiến lên qua mặt
52, rồi lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm hố bố trí, cứ
thế tiến dần … Nhưng sức kháng cự của địch quân c̣n quá mạnh,
nhất là bên cánh phải c̣n khu làng nhỏ sát bờ sông Thạch Hăn, địch bắn qua
quá rát. Ban đêm đôi lúc chúng tôi c̣n nghe cả tiếng chiến xa địch.
Tôi quyết
định xin thêm quân tăng viện và Đại đội 2 trinh sát của Đại úy
Trương Văn Út (Út Bạch Lan) nhập trận. Tôi tung Út Bạch Lan qua bảo vệ
sườn phải cùng song song tiến về hướng Cổ thành. Út Bạch Lan xông xáo,
lanh lợi, gan ĺ ầm vang trong máy, nhất quyết dứt điểm mục tiêu.
Sau
7, 8 ngày quần thảo với địch quân, di chuyển ngày không được chúng tôi
tiến ban đêm… và một sự t́nh cờ ngẫu nhiên, một tiểu đội đi
lạc vào Nhà Thờ Tŕ Bưu. Nghe báo cáo, tôi bèn ra lệnh chiếm giữ và tung thêm quân vào
lục soát, một cảnh tượng hải hùng thương tâm hiện ra trước mắt
– dân chúng kẹt dưới hầm của Nhà Thờ hơn 100 người……già
trẻ, bé lớn vừa đói khát vừa thương tật…….. Hầm trú ẩn
nhà Thờ dày và kiên cố. Gặp chúng tôi, họ mừng vui ra mặt, một giọng Huế
thân thương vang lên:
- “Ḿnh được lính “con Ó” cứu rồi các
ôn ơi!”
Tôi ra lệnh cho y tá săn sóc thuốc men và phát thức ăn tạm cho
đồng bào, chỉ hướng cho họ đi về phía sau, gọi máy báo cáo cho TĐ
tiếp nhận và xin thêm quân lên giữ nhà Thờ v́ sợ địch cắt đứt đường
tiếp tế tải thương. Đại đội 54 của Trung úy Nguyễn Đ́nh
Dương lên chiếm giữ. Dương sau này được lệnh thuyên chuyển về
Phủ Phó Tổng thống. Ban Chỉ huy c̣n tăng cường thêm 1 đại đội
của TĐ11 Nhảy Dù (Song kiếm trấn ải). Đại đội trưởng là
Trung úy Đinh Viết Trinh. Lúc mới ra trường, Trinh về TĐ5 và làm trung đội
trưởng cho tôi. Nghe tiếng Trinh trong máy, tôi thấy Trinh tiến bộ, gan ĺ, xông xáo hơn
trước nhiều. Trinh tiến lên bên cánh trái chiếm nghĩa trang, từng ngôi mộ…..tiến
về hướng Cổ thành. Bên trái là TĐ6 Nhảy Dù đang chiếm giữ căn cứ
Compound của Mỹ để lại. Nhà ga Quảng Trị đă có Mê linh Thiếu Tá Lê Văn
Mễ TĐ11 trấn giữ.
Có lần Hồ Tường đề nghị, nếu
trường hợp bị địch dùng chiến xa và biển người cắt đứt
đường tiếp viện giữa tiền quân và Bộ Chỉ Huy, chúng tôi sẽ có kế
hoạch âm thầm di chuyển ban đêm về hướng TĐ6 Nhảy Dù. Dĩ nhiên tôi
không chấp thuận lư do “Lá Quốc Kỳ chưa được tung bay trên Cổ thành”.
Hằng
giờ, hằng ngày và hằng đêm, Thiếu Tá Lê Hữu Chí B3 và 101(Trung tá Nguyễn Chí Hiếu)
gọi máy hỏi thăm và hối thúc liên tục. Tôi như ngồi trên đống lửa,
thuốc lá và café đen liên tục…
Sức kháng cự của địch quân quá mạnh,
thiệt hại nặng nhất cho tiền quân là đại pháo 130 ly từ dăy Trường
sơn pháo xuống. Bên kia sông Thạch Hăn hỏa lực của địch bắn qua quá rát.
Đại đội 2 trinh sát của Út Bạch Lan phải xử dụng sở trường
dùng các toán trinh sát nhỏ chiếm từng ngôi nhà, lũy tre để tiến lên ngày và đêm…
Tôi
và Hồ Tường cho tiền quân nhổ chốt bằng lựu đạn, đánh cận
chiến và liên tục xử dụng phi pháo tối đa. Cho dù phải sinh Bắc tử Nam,
những tên lính điên cuồng Cộng sản tuyệt đối không thể nào làm khác hơn
v́ chân đă bị xiềng chặt vào các ổ pḥng không, đại liên hoặc súng cối.
Mỗi đêm trôi qua đều hăi hùng, nặng mùi tử khí. Ban ngày khói lửa ngập
trời. Cứ thế chúng tôi từ từ tiến bước….khoảng cách từ đây
đến Cổ thành từ từ rút ngắn….
Sự thiệt hại càng ngày càng
nhiều, những cán bộ ṇng cốt lần lượt bị thương hoặc tử
thương phải rời trận địa. Bao nhiêu tiền sát viên đưa lên đều
lần lượt bị thương và tử thương, v́ họ quá hăng lên ngay tuyến
đầu để quan sát điều chỉnh, có đôi lúc tôi phải kiêm luôn tiền sát
viên, nhưng muốn được yểm trợ phải xưng danh hiệu, các pháo đội
trưởng Dù đều quen biết nên không trở ngại nhiều.
Vào một đêm
tối trời, bên ngoài trời mưa lất phất, Út Bạch Lan gọi tôi qua tần số
đặc biệt để báo cáo cho biết các toán trinh sát gần như tê liệt, đệ
tử ruột thịt bị loại khỏi ṿng chiến quá nhiều, thiệt hại đáng
kể. Trong lúc t́nh h́nh địch mạnh lắm, đại pháo 130 ly, hỏa tiển 122 ly,
pḥng không 37 ly, hỏa tiển SA7, đại liên 12 ly 8, cối đủ loại tạo thành
một bức tường hỏa lực dày đặc rất khó tiến quân. Bên kia sông Thạch
Hăn, địch điều quân như chỗ không người. Út Bạch Lan lưu ư tôi nên
thận trọng, báo cáo t́nh h́nh, xin thêm tăng viện. Nếu sườn bên phải bỏ
trống, sẽ là một trở ngại và là nỗi lo âu to lớn cho tôi.
Sáng hôm sau, tôi
gọi máy đề nghị với 101 cho Đại đội 2 trinh sát lùi về sau giữ
điểm tiếp tế tải thương và xin thêm quân tăng viện. Trong cùng một
ngày, 2 Đại đội của Liên đoàn 81 Biệt kích dù được phái lên tăng
cường và nhập trận. Có lẽ Bộ Chỉ Huy hành quân quan niệm Biệt kích chuyên
đánh từng toán nhỏ, sở trường chiến đấu trong thành phố và mới
nổi danh ở chiến trường An Lộc. Nhưng thật sự với tôi có một
trở ngại lớn trong vấn đề phối hợp và điều động chỉ
huy. V́ hỏa lực của địch quá mạnh, nên 2 Đại đội 81 Biệt kích
dù tiến hơi cẩn thận đôi lúc bị cầm chân tại chỗ.
Trong
lúc Út Bạch Lan điều động Đại đội 2 Trinh sát lùi về sau th́ bị
chốt của địch khai hỏa dữ dội ngăn chặn, địch đă cắt
đứt đường tiếp tế tải thương. Tôi nói với Út với bất
cứ giá nào cũng nhổ cho bằng được các ổ kháng cự này. Tôi xin phi tuần
Skyraider mang bom xăng đặc Napale và quyết định đánh sát cận rất nguy hiểm.
Hai đầu là quân bạn, địch cắt ở giữa, phải làm thế nào đây?
Tôi
hỏi Út dám chấp nhận hy sinh không? Út gật đầu, và chúng tôi quyết định
xử dụng bom Napale. Sau khi L19 bắn khói điều chỉnh, chiếc khu trục thứ
nhất lao xuống thả 2 quả bom xăng đặc. Cả một vùng biển lửa
bốc cháy……sức nóng tàn khốc tỏa rất gần quân bạn, tôi nghe một
vài binh sĩ la lên: - “Check fire đi 501, nguy hiểm lắm!”
Tôi lạnh lùng
bấm máy gọi L19: - “Good, tiếp tục!” Chiếc thứ hai lao xuống,
2 quả bom nữa rời cánh phi cơ, cụm lửa cao lan rộng hơn tiêu hủy cả
một vùng rộng lớn…………..
Tôi gọi Út: - “Vịt con (VC)
bị nướng sống hết rồi, vào lượm súng đi Út Bạch Lan!” -
“Nhận rơ 501, tôi sẽ làm cỏ sạch bọn chúng.” Út Bạch Lan cho xung phong
và thanh toán gọn các ổ kháng cự. Từ đó, con đường tiếp vận tải
thương mới được khai thông.
Trở lại với tiền quân, tôi và Hồ
Tường mở bản đồ, t́m kế hoạch tiếp tục tiến quân. Con đường
từ đây đến Cổ thành c̣n hơn 300m mà sao dài ra thăm thẳm……..và lắm
gian nguy. Tất cả phi pháo đa phần đều dồn hết vào Cổ thành, nhưng
tôi lại không muốn như thế, tôi lại muốn dồn hỏa lực lên phía Bắc
sông Thạch Hăn đến phi trường Ái Tử ra tận Đông Hà – phía Tây dăy
Trường sơn, phải làm sao khóa họng các khẩu đại pháo 130 ly và hỏa tiễn
122 ly của địch.
Cần nói rơ trong thời điểm này, không lực Mỹ và
B52 không đồng ư oanh tạc trong thành phố Quảng Trị. Quảng Trị ch́m trong biển
lửa, điêu tàn và thảm khốc. Gần một tháng trời quần thảo với địch
quân với hơn 2 Sư đoàn chính quy Bắc Việt: Sư đoàn 304 và 324 (?) Sự thiệt
hại của đôi bên đă lên đến con số khá cao, nếu được tính chính
xác.
Vào một đêm đang ngồi trong hầm, bấm đèn pin xem bản đồ,
suy nghĩ phương thức tiến quân th́ hiệu thính viên đưa máy cho tôi và nói 101 muốn
gặp:
- “101, đây 501 tôi nghe!” - “Báo cho anh biết, đích thân Tông tông
ra lệnh cho Quân Đoàn 1 và Đại bàng 1 (Trung tướng Ngô Quang Trưởng) ra lệnh
cho chúng ta phải thanh toán mục tiêu Cổ thành bằng mọi giá, càng sớm càng tốt,
nhận rơ trả lời.”
- “Nhận rơ 101, tôi sẽ cố gắng!”
Thẫn
thờ buông máy, suy nghĩ mông lung……. Những Sĩ quan chủ lực của tôi
lần lượt bị thương rời vùng, từ Trung úy Nguyễn Tiến Việt,
Thiếu úy Nguyễn Văn Hội, Chuẩn úy Sanh…….đều bị thương.
Bất đắc dĩ phải cho hạ sĩ quan cao cấp lên làm Trung đội trưởng,
có người không biết đọc bản đồ, nhưng tác chiến rất ĺ lợm
và kinh nghiệm.
V́ sức kháng cự của địch quân c̣n quá mạnh, đại
quân bị khựng lại. Tôi quyết định cho thành lập toán cảm tử, lợi
dụng đêm tối tiến lên chiếm thành, hầm hố vững chắc, cố gắng
cầm cự để tờ mờ sáng hôm sau, tôi dẫn đại quân lên chi viện và dứt
điểm mục tiêu Cổ thành. Toán cảm tử này hoàn toàn t́nh nguyện. Đó là kế
hoạch nhưng sự thi hành hơi khác.
Số t́nh nguyện lên khá cao, đă hơn 10
binh sĩ. Nhiều quá dễ bị lộ! Tôi quyết định chọn ra 8 người.
Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán, Hồ Khang sinh trưởng lớn lên
đi học tại Quảng Trị nên làm tiền sát dẫn đường, Hậu mang máy,
Hồ Con, Lê Văn Lịch… Tôi không nhớ hết tên 8 người.
Vào một đêm
tối trời, tôi tập hợp tiểu đội t́nh nguyện này vào một căn hầm
của dân để lại, căn dặn cẩn thận và nói rơ mục đích chuyến
đi nguy hiểm này. Chúng tôi chia xẻ với nhau từng điếu thuốc quân tiếp
vụ, sau cùng tôi lên tiếng:
- “Các anh nên suy nghĩ kỹ lại đi. Không một
ai có thể bắt buộc các anh, đây là vinh dự của Tổ quốc và Quân đội
dành cho các anh. Tôi chỉ hứa nếu nhiệm vụ hoàn thành, tôi sẽ kư cho các anh 15 ngày phép
về Saigon.”
Hậu mếu máo nói với tôi: - “Chúng tôi không dám nghĩ đến
những vấn đề quá cao xa, chúng tôi t́nh nguyện ra đi v́ quá thương Đích thân,
mấy ngày qua Đích thân không ăn một miếng cơm, chỉ uống nước, café
và thuốc lá.”
Tôi vỗ vai từng người và hứa: - “Tôi thề sẽ
không bao giờ bỏ các anh đâu, yên chí, sáng hôm sau sẽ có tôi bên cạnh.” Hồ Khang
xin mang theo lá Quốc Kỳ, Hậu mang máy PRC25.
Đêm hôm đó, toán Quyết tử âm
thầm lao ḿnh vào đêm đen. Tôi thức theo dơi từng bước đi, thỉnh thoảng
cho pháo binh bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này đôi
lúc phải lẩn lách tránh các ổ kháng cự của địch. Nửa đêm hôm đó,
toán Quyết tử báo cáo đă thấy được Cổ thành và đang t́m cách lội qua
hào sâu, sát bờ thành:
- “Nước sâu quá Đích thân.”
Hậu thều thào
trong máy. Tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ thành và xung quanh. Ra lệnh
tiền quân sẵn sàng xuất phát.
Tờ mờ sáng hôm sau, trong khi vạn vật chưa
tỉnh ngủ, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn: “Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm,
Nhảy Dù muôn năm!” Tôi nghe hiệu thính viên đứt khoảng trong máy: - “Quốc
Kỳ đă được dựng lên!”
Liền sau đó tiếng nổ ầm vang
tứ phía. Đại liên 12 ly 8, AK47, B40…….bắn xối xả vào một mục tiêu
duy nhất – lá Quốc Kỳ!
Sau đó mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra lệnh
xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu bạn và
xin thêm đạn khói bao phủ Cổ thành. Pháo binh địch cũng bắt đầu lên
tiếng trả đũa. - “Mưa rơi nặng hột (pháo địch mạnh lắm)”
Nhưng
cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, cho dù băo tố tôi cũng phải đi. Tôi
phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường: - “Sắp
tới rồi, c̣n không đầy 100m nữa thôi, nhanh lên 502!”
Tôi và Hồ Tường
song song tiến thẳng lên Cổ Thành, bỏ 2 Đại độ 81 Biệt kích bên cánh phải
đằng sau, thế là sườn phải bị bỏ trống. Một vài binh sĩ bị
thương v́ pháo kích, tôi không màng để ư, cứ tiến thẳng lên Cổ Thành và xin thêm
lá Quốc Kỳ thứ hai.
Sáng hôm đó khi mặt trời ló dạng, chúng tôi đă nh́n
thấy Cổ Thành trước mặt. Nhưng lại có một chướng ngại vật
quá lớn, đó là thành quá dày và cao. Thành dày khoảng 5m, cao 5m và được bao bọc bằng
hào sâu tới cổ, rộng gần 10m.
Không thể xử dụng được hàng
ngang, tiền quân bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và t́m phương thức
tấn công. Trên mặt thành, địch pḥng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn
xối xả vào quân ta.
Hồ Tường cứ di chuyển ẩn núp sau các dăy nhà sụp
đổ, chạy tới chạy lui và dùng súng bắn tỉa Việt cộng trên thành. Mỗi
lần nhắm trúng một tên là hắn la lên vui mừng. Với tôi, trước tiên phải
làm sao phá vỡ được thành mới tính tới chuyện xung phong. Nếu cho quân lội
qua hào, rồi dùng dây leo lên thành, chắc chắn chỉ làm bia cho địch tác xạ. Cho xử
dụng 57 ly không giật, kể cả 90 ly vẫn không thể phá nổi thành. Bên sườn
phải, địch quân vượt sông Thạch Hăn chi viện, bám đầu cầu và khai
hỏa dữ dội bên phải. Trong t́nh thế chẳng đặng đừng, tôi điều
động thêm một trung đội của Đại đội 54 do Chuẩn úy Thạch
Hớn chỉ huy tấn công và giữ sườn bên phải.
Nhưng một trung đội
làm sao chống nổi biển người! Đêm hôm đó đành bám trụ cố thủ,
cho thám sát mặt nước cũng như kéo xác toán cảm tử c̣n kẹt trong thành. Quả
thật là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp mắt, cafe hết, thuốc lá
chẳng c̣n……… Xác đệ tử cách ḿnh chỉ vài chục thước chưa
kéo về được, bức tường thành kiên cố và hào sâu đầy chướng
ngại, làm cách nào thanh toán đây?
Khuya hôm đó, một binh sĩ toán cảm tử chạy
về được báo cáo tôi biết: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đă tử
thương trên thành, số c̣n lại đều thất lạc!
Sáng hôm sau, tôi cho xử
dụng hỏa tiển M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với hy vọng phá nổi
tường thành, nhưng bờ thành chỉ xây xuyển đôi chút rồi vẫn sừng sững
giữa trời…….. Ngày N+26, một ngày định mệnh đă xảy đến!
Tôi
quyết định xử dụng bom cực mạnh để phá thành. Sau khi ra lệnh cho
binh sĩ hầm hố cho thật kiên cố, tôi cho gọi Hồ Tường đến chung
một hố sơ sài của dân để lại. Một sai lầm lớn, không thể đặt
hai bộ chỉ huy Đại đội chung cùng một hố. Ít nhất 4 cần antene và
một số binh sĩ lố nhố sẽ là mục tiêu tốt cho địch pháo kích, nhưng
để dễ chỉ huy điều động, tôi chấp nhận mọi hậu quả.
Sau
khi nghe tôi tŕnh bày kế hoạch, Hồ Tường có vẻ lưỡng lự nhưng không
dám căi. Tôi quyết định đánh bom theo trục Tây Bắc xuống Đông Nam, nghĩa
là đối diện với tiền quân.
Một chiến thuật hoàn toàn sai nguyên tắc,
rất nguy hiểm cho quân bạn. Mục đích của tôi là muốn lấy gạch đất
của thành để lấp hào sâu, làm bàn đạp xung phong vào thành. Chiếc khu trục đầu
tiên nhào xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi sát mặt đất,
nón sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2 quả nữa nổ
long trời lở đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời………
Khi
ngẩng đầu lên nh́n trong đám bụi mờ, tôi thấy cả một niềm vui, tôi
vỗ vai Hồ Tường: - “Thành đă bị vỡ, chuẩn bị xung phong!”
Sau
khi gọi pháo binh, đầu nổ chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng đạn
khói phủ ngập mục tiêu. Tôi ra lệnh 2 trung đội đầu bỏ balô tại
chỗ, một người cầm lựu đạn, một người cấm súng
vượt nhanh qua hào sâu, bám chặt vào góc Cổ Thành đă bị vỡ. Nhờ đất
đổ xuống lấp mặt nước hơi cạn, lợi dụng màn khói bao phủ,
nên tiền quân vượt qua tương đối dễ dàng. Khi màn khói vừa tan, địch
quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt
ở mặt tiền và giữa sân cột cờ Tiểu khu, địch c̣n ngoan cố trong
hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung
rộng đội h́nh vừa đào hầm hố, vừa chống cự.
Phi cơ quan
sát L19 bao vùng báo tôi biết địch từ phía Bắc sông Thạch Hăn tràn qua như kiến!
Tôi một mặt xin pháo binh yểm trợ, một mặt xin tiếp phi tuần oanh kích.
Trong
giờ phút dầu sôi lửa bỏng như thế, th́nh ĺnh một tai họa xảy đến.
Một quả đạn cối 82 ly nổ ngay hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ
thật ra chỉ là một ụ ẩn nấp sơ sài, trước mặt đường
là hào sâu v́ tôi muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ Tường máu me đầy người,
3 hiệu thính viên: một chết, hai bị thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh
tay trái trĩu nặng, máu đào đă thấm ướt chinh y. Tôi cho gọi Thượng
sĩ Trực lên tải thương và y tá băng bó tạm vết thương. C̣n một
tay vẫn c̣n xử dụng được Combiné. Lúc đó tôi đă là người say máu.
Gọi
máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn để nhận được lời khiển
trách của 101: - “Căn dặn anh nhiều lần, đừng chụm hai bộ chỉ
huy lại một chỗ, không nghe!” Thiếu tá Lê Hữu Chí B3 vẫn c̣n đùa cợt
trong máy: - “Xử dụng Độc Cô cửu kiếm đi Lệnh Hồ đại
ca!”
Đôi lúc danh hiệu truyền tin của tôi là “Lệnh Hồ Xung”, với
t́nh trạng này dù có 10 thành Cửu dương thần công, hay độc cô cửu kiếm
cũng đành bó tay!
Tôi cho củng cố, phối trí lại lực lượng. Hai Đại
đội 51 và 52 nhập lại thành một. Bung 51 và Đinh Viết Trinh lên bên trái. Bên phải
sát bờ sông Thạch Hăn, hối thúc 2 Đại đội 81 Biệt kích tiến lên giữ
cạnh sườn. Nhưng v́ sức kháng cự của địch quá mạnh nên cánh quân
này bị dậm chân tại chỗ.
Đă kéo về được 3 xác của toán Quyết
tử: Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được v́ anh đeo thẻ bài dưới
chân, Hồ Con gục ngă, Lê Văn Lịch bị bắn ngay giữa đầu……..số
c̣n lại bị thất lạc.
Ra lệnh cho các trung đội trong thành củng cố
hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lên lần thứ hai. Cờ
vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của Cộng sản, cho
nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng nhất c̣n ở
giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12 ly 8 ở lô cốt mặt
tiền hạ ṇng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào cột cờ. Quân ta cũng
chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững ngọn cờ!
Tôi
gọi L19 lên bao vùng và quyết định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ Tiểu
khu. Danh hiệu của L19 bấy giờ là Phi Long (nếu tôi nhớ không lầm).
- Phi
Long, Phi Long đây! 501 gọi, nghe rơ trả lời! - Phi Long tôi nghe. - Anh có nh́n thấy lá
Quốc Kỳ ở góc Đông Nam Cổ Thành không? - OK, đă nh́n thấy rơ! - Tôi đang
ở đó. Anh cho đánh từ lá Cờ về hướng Tây Bắc từ 100 đến
150m, nhận rơ trả lời. - Nhận rơ 5/5. - Lưu ư anh là pḥng không địch rất
mạnh. Hỏa tiển SA7 và 37 ly đang chào đón các anh.
Lưu ư dùm fighter đánh trên
đầu khói, v́ khói đang bay dạt về hướng tôi. - Đă nhận rơ, tôi sẽ
gọi phi tuần đến ngay! Khoảng 10 phút sau, 2 chiếc A37 bán phản lực vào
vùng, bay lượn xung quanh và chờ L19 chỉ điểm. L19 bay quá cao để tránh pḥng
không nên khi lao xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, hơn nữa
cụm khói đang từ từ theo chiều gió bay đến chúng tôi…
Tôi vừa bấm
máy gọi Phi Long th́ chiếc A37 đầu tiên đă lao xuống, 2 quả bom rơi xuống
ngay trung đội đầu. Tôi thất thanh la lớn: “Check fire ngay lập tức!” Nhưng
sát theo sau là chiếc thứ hai lao xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng.
Tôi ra lệnh tung khói màu và gọi “check fire”. Đă trễ rồi! “Phi cơ
đă đánh lầm chúng tôi rồi!”
Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm,
tay chân nặng trĩu. Cả một bầu trời sụp đổ thê lương. Hơn
phân nửa của 3 trung đội đầu gần như tê liệt. Nh́n binh sĩ lần
lượt tải thương, d́u nhau trở lại mà ḷng tôi tê cứng. Tại sao? Định
mệnh nghiệt ngă hay số trời?
Tôi rút máy h́nh chữ nhật ra định tiêu
hủy mục tiêu, lưỡng lự…..lại thôi! Rút colt 45 ra định kết liễu
đời ḿnh để đi theo chiến hữu, nhưng đệ tử xung quanh ngăn
cản.
Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm soát lại binh sĩ, tạm bố
trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung Tá Hiếu cho Thiếu Tá Bùi Quyền lên thay và cho
tôi về dưỡng thương. Nhưng tôi biết rơ, nếu tôi về đêm nay và nếu
lỡ bị địch tấn công coi như tan ră. Tôi cần ở lại và quyết định
từ chối tải thương.
Thiếu tá Bùi Quyền cho biết lệnh ngày mai bàn
giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân Lục Chiến để nhận nhiệm vụ khác.
Tôi không cần thắc mắc, v́ thật ra tôi chỉ c̣n là một cái xác khHCMn, đau thương,
uất nghẹn…..
Chỉ v́ Cổ Thành Quảng trị, chỉ v́ lá Quốc Kỳ,
mà biết bao nhiêu chiến binh Mũ Đỏ đă bị thương và nằm xuống
nhẹ nhàng và hănh diện. Sáng hôm sau, 27/7/1972, bàn giao vùng trách nhiệm lại cho TQLC trong màn
khói bao phủ để tránh địch quân quan sát, pháo kích và tấn công. Địa điểm
đầu tiên cách bờ thành chưa đầy 100m, nằm trong tầm đạn của
quân thù.
Sau ngày 27/7/1972, chiến thuật và sự điều binh của TQLC tôi hoàn toàn
không rơ.
Thay lời kết: Tôi muốn nói: “Nhảy Dù” đă đánh và
đă vào Cổ Thành Quảng Trị như thế đó. Vào bằng tất cả hỏa lực
và máu xương. Vào bằng tất cả quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho
Tổ Quốc, cho dân tộc. Quyết tâm dựng lại cho bằng được lá Quốc
Kỳ.
Nhưng than ôi: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Bây giờ, đă 37 năm trôi qua, trong lúc TQLC chuẩn bị làm Lễ Chiến thắng Cổ
thành Quảng Trị th́ cũng có một người đang âm thầm làm giỗ tưởng
niệm các đệ tử thân thương của ḿnh, cho dù đơn giản với một
vài nén hương, một vài đóa hoa hay đôi ḍng thương nhớ để nói lên sự
hy sinh, ḷng dũng cảm và hào hùng của những “thiên thần Mũ Đơ”
trong trận chiến Cổ Thành.
Hồ Khang, Hồ Con, Trần Tâm…..quê hương
tôi nghèo, tên tôi không chữ lót, nhưng họ mới thật sự là những anh hùng.
Một
Đỗ Từ Long, đầu không bao giờ mọc tóc v́ ba gai thành phố, nhưng đánh
giặc th́ ĺ lợm mấy ai bằng. Chạy lên chạy xuống xin lựu đạn để
gục ngă trên hố quân thù. Ngày nào nó cũng nghêu ngao:
“Tóc em dài em cài hoa Thiên lư, Tóc
anh dài, Thượng sĩ cạo đầu anh….”
C̣n nhiều và rất nhiều
nữa, Thượng sĩ già Nguyễn Văn Trực, Hậu, Lịch, Tống, Ḱnh….tất
cả đă cùng tôi dầm sương dăi nắng, qua bao nhiêu hiểm nguy binh lửa, mà phút
chốc đă bỏ tôi nằm đây bất động……. C̣n 52, c̣n Tiểu đoàn
5 Nhảy Dù, Đại đội 2 Trinh sát, Biệt kích 81 Dù, bao nhiêu người nằm xuống?! Lịch
sử có ghi, xin hăy ghi dùm, HỌ mới đích thực là anh hùng. Chưa bao giờ họ được
hưởng bổng lộc, chưa bao giờ được thấy vinh quang dù chỉ trong
chớp mắt nh́n được Cờ vàng 3 sọc đỏ tung bay trên Cổ Thành Quảng
trị, cho dù một phút giây, cho dù giữ không nổi, nhưng họ đă cho đó là sứ
mệnh thiêng liêng của người lính VNCH, của chiến binh Mũ Đỏ.
Hăy
chờ tôi các em nhé! Cho dù sớm hay muộn, cho dù con đường có ngắn hay dài, tôi cũng
sẽ gặp lại các em ở một nơi xa xăm nào đó, để cùng nhau nâng chén
rượu đoàn viên:
“Xin cho tôi một mộ phần, Bên ngàn chiến hữu
của tôi.”
Trương Đăng Sỹ
--- This article comes from Cánh Thép http://www.canhthep.com
|
|