ThaiDuong-Jupiters 530

Viet Nam Toi Dau?

Home
Our Purpose
530-List
530-history
Stories/poems
Members Page
The Road
Picture Gallery
Links

“Việt Nam tôi đâu?” câu hỏi của nhiều thế hệ

 

Tuesday, 28 February 2012 21:50

Trần Trung Đạo

 

Buổi trưa ở Chennai. Làm việc xong trên đường trở về khách sạn, tôi nhờ người lái xe đưa đi thăm vịnh Bengal. Đứng bên bờ vịnh nh́n sang phía bên kia bờ là Đông Nam Á. Tôi tự hỏi Việt Nam đang nằm ở đâu sau ḍng nước xanh xa thẳm kia. Và cùng lúc tôi chợt nghĩ đến bài hát “Việt Nam tôi đâu” của Việt Khang đang trở thành khẩu hiệu cho tuổi trẻ trong vào ngoài nước.

Việt Nam tôi đâu?

 

Câu hỏi của tôi vang lên theo từng đợt sóng dội vào bờ cát Chennai nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời. Một người đứng trên đất khách và một kẻ đang ở trong tù có cùng một câu hỏi.

Th́ ra, không phải người đi xa mới thấm thía nỗi đau của kẻ thiếu quê hương mà cả những người đang sống trên đất nước vẫn đi t́m kiếm quê hương. Và quê hương chúng tôi đang t́m kiếm, không chỉ là núi đồi, sông biển, ruộng vườn, cây trái nhưng là một quê hương có khối óc tự do, có tâm hồn nhân bản, có trái tim dân chủ, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến tạo một xă hội thanh b́nh thịnh vượng cho măi măi Việt Nam.

Thời gian tôi sống ở xứ người dài hơn so với thời gian sống ở Việt Nam và đă nhiều năm làm công dân Mỹ nhưng ngoại trừ việc phải điền vào những giấy tờ cần thiết, khi được hỏi tôi là ai, tôi luôn trả lời tôi là người Việt Nam. Một phần, tôi cảm thấy chút ǵ đó ngượng ngùng khi nhận ḿnh là người Mỹ và một phần khác tôi không thể từ chối đất nước đă sinh ra tôi. Tôi cám ơn nước Mỹ đă cứu vớt tôi từ biển cả, cho tôi chiếc nệm ấm, giúp tôi có cơ hội học hành, dang rộng đôi tay chào đón khi tôi bước xuống phi trường lần đầu trong một đêm đông lạnh, nhưng suy nghĩ và phân tích cho cùng, tôi vẫn là người Việt Nam. Tôi nghĩ về nước Mỹ với một trách nhiệm công dân mang tính pháp lư hơn là một người con mang trên vai nghĩa vụ tinh thần. Tôi không biết kiếp sau, nếu có, tôi là ǵ nhưng kiếp này tôi là người Việt Nam. Tôi dặn ḷng như thế.

Việt Nam tôi đâu?

Câu hỏi có vẻ ngô nghê nhưng không phải dễ trả lời. Nếu ai hỏi, thật khó cho tôi gỉải thích đủ và đúng trong một câu ngắn gọn. Việt Nam của tôi không phải là Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam và dĩ nhiên không phải là chế độ cai trị con người bằng nhà tù và sân bắn như hiện nay.

Nh́n chiếc ghe hư nằm trơ trọi trên bờ biển Chennai, tôi chợt nhớ đă có một thời, nhiều thuyền nhân Việt Nam từng hỏi “Việt Nam tôi đâu” và đă đồng ư với nhau rằng Việt Nam đă chết như trong bài hát Một lần miên viễn xót xa quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Thành:

Giờ đây, mỗi đứa con lạc loài mỗi nẻo
Đứa London, đứa Paris, đứa đèo heo gió hút
Gặp nhau từng hàng lệ xót xa, buông những câu chào
Đôi ba sinh ngữ, Bonjour, Au revoir, Hello, Good bye
Con gục đầu chua xót đắng cay.
Thưa me, thưa me, thưa me, quê hương ḿnh
Đă chết rồi, mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ Việt Nam ơi …”

V́ “quê hương ḿnh đă chết rồi” nên hàng triệu đứa con của mẹ phải bỏ ra đi khắp chân trời góc biển.

Có người không đồng ư và cho rằng quê hương vẫn c̣n đó, núi sông vẫn c̣n đó, chết chóc ǵ đâu mà than văn. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn c̣n có đó và sẽ măi măi c̣n đó cho ngàn đời sau.

Đúng hay sai, c̣n hay mất, sống hay chết tùy theo cách hiểu và cách nh́n về đất nước. Với tôi và có thể với nhiều đồng bào cùng cảnh ngộ, quê hương không chỉ là những vật vô tri, vô giác nhưng phải là một quê hương sống động và có tâm hồn. Sau 30 thágng Tư năm 1975, quê hương Việt Nam đă mất tâm hồn và thậm chí trở thành tù ngục. Việt Nam, nơi con người bị đối xử như con vật. Việt Nam, nơi con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những ḍng thơ họ muốn viết. Hàng triệu người Việt Nam đă không c̣n chọn lựa nào khác hơn là ra đi.

Hành tŕnh của hơn hai triệu người Việt Nam từ sau tháng Tư năm 1975 không chỉ được ghi bằng những bước chân rỉ máu trên những chặng đường đầy đau thương thử thách nhưng c̣n qua những bài hát được viết như tiếng thét gào của đoàn lưu dân trên sa mạc trần gian.

Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào ngướ nỗi chết
Quê hương ta sống chia ḍng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin.
(Mai tôi đi, nhạc Nguyễn Đ́nh Toàn)

Những ngày tháng lênh đênh đó, ai không dừng tay dù đang làm việc ǵ khi nghe Người di tản buồn của nhạc sĩ Nam Lộc, Sài G̣n niềm nhớ không tên của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn hay Đêm nhớ về Sài G̣n của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cất lên từ giọng ca Khánh Ly? Có ai không chợt nghe ḷng ḿnh chùng xuống khi chị Nguyệt Ánh cất lên những lời năo nùng trong Một chút quà cho quê hương của nhạc sĩ Việt Dũng? Có ai không nghe như có tiếng mưa rơi dù đang đứng giữa phố Bolsa nắng gắt khi nghe giọng Ngọc Lan kể lể trong Khóc một ḍng sông của nhạc sĩ Đức Huy? Và nhiều nữa, Phạm Duy với 1954 Cha bỏ Quê 1975 Con bỏ Nước, Nhật Ngân với Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh, Châu Đ́nh An với Đêm chôn dầu vượt biển, Phan Văn Hưng với Ai trở về xứ Việt, Phan Ni Tấn với Bài hát học tṛ, Tô Huyền Vân với Quê hương bỏ lại v.v…

Và tất cả đă đóng góp phần ḿnh viết nên bài trường ca đầy bi tráng của một bộ phận dân tộc Việt Nam sau mùa băo lửa 1975. Từ Camp Pendleton đến Leamsing, Palawan, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, White Head, Panat Nikhom, Galang, những tên tuổi địa danh đi vào lịch sử Việt Nam qua cái chết tủi buồn của mẹ, qua giọt nước mắt của em, qua tiếng gào thống thiết của anh vọng lên giữa Thái B́nh Dương bát ngát.

Thời gian cuốn đi bao vết tích, tạo ra bao đổi thay của thời thế và con người. Bây giờ, một số nhạc sĩ đă qua đời, một số đang qua đời trong cách khác và một số vẫn tiếp tục đi trên con đường lư tưởng dù tuổi tác đă già. Nhưng dù sống hay chết, bỏ đi hay ở lại, những bài hát của họ đánh dấu một giai đoạn lịch sử nhiều bi tráng của đất nước và góp phần xây lên tấm bia đá thuyền nhân bi thương ngàn đời trong lịch sử Việt Nam.

Và những người c̣n ở lại, phải chăng họ dễ dàng trả lời “Việt Nam tôi đâu?”

Không. Tôi không nghĩ thế. Nếu ai hỏi những người thuộc thế hệ đă trải qua giai đoạn cùng cực những năm sau 1975 c̣n sống hôm nay có thể họ cũng sẽ trả lời trái tim Việt Nam có một thời ngừng đập. Thời gian dừng lại. Không gian đóng kín bịt bùng. Việt Nam đă chết ngay cả trong ḷng những người đang sống giữa ḷng đất nước. Một triệu dân Sài G̣n dắt nhau sống lây lất trong các vùng kinh tế mới. Nhiều trăm ngàn sĩ quan viên chức miền nam bị đầy đọa khắp các trại tù. Con người Việt Nam sau 1975 vẫn phải sống, phải thở, phải t́m mọi cách để sinh tồn trong hoàn cảnh nghiệt ngă chứ không phải là những con người an vui hạnh phúc như phần lớn của sáu tỉ người c̣n lại trên thế giới. Chính ông Vơ Văn Kiệt khi c̣n sống đă phải thừa nhận niềm vui của đảng Cộng Sản là nỗi buồn của nhiều triệu người dân Việt.

Dân tộc nào cũng có thể phải trải qua những chặng đường đau thương gian khổ nhưng Việt Nam có thể nói là một trong số rất ít quốc gia mà sự chịu đựng kéo dài qua nhiều thế hệ. Hơn nửa đời người trôi qua, tiếng thét vẫn c̣n vang vọng qua bài hát của nhạc sĩ Việt Khang:

Viêt Nam ơi
Thời gian quá nửa đời người
Và ta đă tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nh́n đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian.

Sau 36 năm, Việt Nam chẳng những không bước thêm một bước nào; trái lại, về kinh tế, chính trị, so với đà tiến nhân loại, đă lùi xa hơn vào quá khứ, và văn hóa đạo đức đang trở về với thời sơ khai nô lệ, nghĩa là thời kỳ mọi của cải đều có thể mua bán, trao đổi, kể cả mua bán, trao đổi chính con người. Người mẹ đang từng cơn xót dạ nh́n đời mà Việt Khang gặp hôm nay không khác ǵ người mẹ mà tôi gặp đi bán máu ngoài nhà thương Chợ Rẫy mấy chục năm trước. Nếu ai hỏi Việt Nam của mẹ ở đâu, chắc chắn mẹ sẽ chỉ ra những nấm mồ vô chủ. Những bầy em đói khổ nghèo nàn mà Việt Khang mô tả hôm nay cũng không khác ǵ đám trẻ tôi đă gặp ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài ba mươi lăm năm trước. Nếu ai hỏi Việt Nam của các em đâu, các em sẽ chỉ ra những vỉa hè bụi bặm, những góc phố tối tăm. Nhưng hiểm họa đất nước đang phải đương đầu không chỉ là độc tài, tham nhũng mà c̣n là đại họa mất nước.

Giờ đây Việt Nam c̣n hay đă mất
Mà giặc tàu ngang tàng trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa, đă bao người dân vô tội
Chết ngậm ngùi v́ tay súng giặc tàu

Là một người con dân Việt Nam
Ḷng nào làm ngơ trước ngoại xâm
Người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi

Từng đoàn người đi chẳng nệ chi
Già trẻ gái trai giơ cao tay
Chống quân xâm lược
Chống quân nhu nhược
Bán nước Việt Nam

Việt Nam tôi đâu
Việt Nam tôi đâu

Chúng ta đọc quá nhiều, nghe quá nhiều, hănh diện quá nhiều về lịch sử hào hùng bốn ngàn năm giữ nước. Vâng, nhưng đó chỉ là những hào quang của quá khứ, là những thành tựu của tổ tiên, không phải của chính chúng ta. Những bài học thuộc ḷng về một quá khứ hào hùng của dân tộc không thể giúp lau khô đi ḍng nước mắt hôm nay:

Kính thưa thầy đây bài thuộc ḷng của con
Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Một trăm năm Pháp thuộc
hai mươi năm đọa đày
Làm sao con thuộc được truyện Kiều Nguyễn Du.
Kính thưa thầy đây là quyển vở của con
suốt một năm không hề có chữ
con để dành ép khô những gịng nước mắt
của cha con, của mẹ con, của chị con, và của …chính con.
(Bài học của con, nhạc Phan Ni Tấn)

Lịch sử không phải là một ngôi miếu để thờ cúng nhưng là một đời sống luôn đổi mới. Truyền thống chỉ là một thói quen lỗi thời nếu truyền thống không được hiện đại hóa. Angkor Wat, Angkor Thom nguy nga, đồ sộ nhưng không cứu được một phần tư dân tộc Khờ Me khỏi bàn tay Pol Pot. Tương tự, Ấn Độ, một dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất nhân loại và trải qua các thời đại hoàng kim từ Ashoka đến Gupta, cũng đă chịu đựng hàng loạt ngoại xâm từ Mông Cổ, Hồi Giáo và thực dân Anh kéo dài suốt 600 năm.

Việt Nam cũng thế. Nếu chỉ biết tôn vinh quá khứ và làm ngơ trước hiểm họa Trung Quốc hôm nay, rồi lịch sử dân tộc với những chiến công hiển hách của các thời Ngô, Đinh, Lư, Trần cũng sẽ chỉ là những tấm bia trong một ngôi đền cổ. Hăy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều im lặng, làm ngơ, chịu nhục trước hiểm họa mất nước, rồi bốn ngàn năm nữa, những đứa trẻ ḍng Việt tộc, đi ngang qua di tích đền Hùng, sẽ căm hận biết bao khi nghĩ về tổ tiên nhu nhược của chúng vào bốn ngàn năm trước đó.

Đừng để lại cho các thế hệ Việt Nam tương lai một ngôi đền mà ngay hôm nay hăy xây cho họ một căn nhà Việt Nam Mới tự do, dân chủ, công bằng, bác ái.

Bài hát Việt Nam tôi đâu của Việt Khang là tiếng chuông đánh thức hồn thiêng sông núi đang ngủ quên trong ḷng người. Ngọn đuốc Việt Khang thắp lên soi sáng con đường đi về phía trước. Các thế hệ Việt Nam từ lúc chào đời đă mang tinh hoa tinh huyết của ḍng giống Lạc Long, nhưng tinh hoa tinh huyết đó phải được mài dũa thành vũ khí để bảo vệ đất nước hôm nay. Cứu Việt Khang, do đó, không phải chỉ cứu một thanh niên, một nhạc sĩ đang bị tù đày nhưng hơn thế nữa, tự cứu chính ḿnh và từ đó đứng lên cứu dân tộc ḿnh.

Trần Trung Đạo

 

Thai Duong 530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh-Pleiku Air Base, Vietnam