Trần Trung Đạo
Buổi trưa ở Chennai.
Làm việc xong trên đường trở về khách sạn, tôi nhờ người lái xe đưa
đi thăm vịnh Bengal. Đứng bên bờ vịnh nh́n sang phía bên kia bờ là Đông
Nam Á. Tôi tự hỏi Việt Nam đang nằm ở đâu sau ḍng nước xanh xa thẳm
kia. Và cùng lúc tôi chợt nghĩ đến bài hát “Việt Nam tôi đâu” của Việt
Khang đang trở thành khẩu hiệu cho tuổi trẻ trong vào ngoài nước.
Việt Nam tôi đâu?
Câu hỏi của tôi vang
lên theo từng đợt sóng dội vào bờ cát Chennai nhưng tuyệt nhiên không có tiếng
trả lời. Một người đứng trên đất khách và một kẻ đang
ở trong tù có cùng một câu hỏi.
Th́ ra, không phải người
đi xa mới thấm thía nỗi đau của kẻ thiếu quê hương mà cả những
người đang sống trên đất nước vẫn đi t́m kiếm quê hương.
Và quê hương chúng tôi đang t́m kiếm, không chỉ là núi đồi, sông biển, ruộng
vườn, cây trái nhưng là một quê hương có khối óc tự do, có tâm hồn nhân
bản, có trái tim dân chủ, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến
tạo một xă hội thanh b́nh thịnh vượng cho măi măi Việt Nam.
Thời gian tôi sống
ở xứ người dài hơn so với thời gian sống ở Việt Nam và đă nhiều
năm làm công dân Mỹ nhưng ngoại trừ việc phải điền vào những giấy
tờ cần thiết, khi được hỏi tôi là ai, tôi luôn trả lời tôi là người
Việt Nam. Một phần, tôi cảm thấy chút ǵ đó ngượng ngùng khi nhận ḿnh
là người Mỹ và một phần khác tôi không thể từ chối đất nước
đă sinh ra tôi. Tôi cám ơn nước Mỹ đă cứu vớt tôi từ biển cả,
cho tôi chiếc nệm ấm, giúp tôi có cơ hội học hành, dang rộng đôi tay chào đón
khi tôi bước xuống phi trường lần đầu trong một đêm đông lạnh,
nhưng suy nghĩ và phân tích cho cùng, tôi vẫn là người Việt Nam. Tôi nghĩ về nước
Mỹ với một trách nhiệm công dân mang tính pháp lư hơn là một người con mang
trên vai nghĩa vụ tinh thần. Tôi không biết kiếp sau, nếu có, tôi là ǵ nhưng kiếp
này tôi là người Việt Nam. Tôi dặn ḷng như thế.
Việt Nam tôi đâu?
Câu hỏi có vẻ ngô nghê
nhưng không phải dễ trả lời. Nếu ai hỏi, thật khó cho tôi gỉải
thích đủ và đúng trong một câu ngắn gọn. Việt Nam của tôi không phải là
Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam và dĩ nhiên không phải là chế độ
cai trị con người bằng nhà tù và sân bắn như hiện nay.
Nh́n chiếc ghe hư nằm
trơ trọi trên bờ biển Chennai, tôi chợt nhớ đă có một thời, nhiều
thuyền nhân Việt Nam từng hỏi “Việt Nam tôi đâu” và đă đồng
ư với nhau rằng Việt Nam đă chết như trong bài hát Một lần miên viễn
xót xa quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Thành:
Giờ đây, mỗi
đứa con lạc loài mỗi nẻo Đứa London, đứa Paris, đứa đèo
heo gió hút Gặp nhau từng hàng lệ xót xa, buông những câu chào Đôi ba sinh ngữ, Bonjour,
Au revoir, Hello, Good bye Con gục đầu chua xót đắng cay. Thưa me, thưa me, thưa
me, quê hương ḿnh Đă chết rồi, mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ Việt Nam
ơi …”
V́ “quê hương ḿnh
đă chết rồi” nên hàng triệu đứa con của mẹ phải bỏ ra đi
khắp chân trời góc biển.
Có người không đồng
ư và cho rằng quê hương vẫn c̣n đó, núi sông vẫn c̣n đó, chết chóc ǵ đâu
mà than văn. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của
người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương
tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn c̣n có đó và sẽ măi măi c̣n
đó cho ngàn đời sau.
Đúng hay sai, c̣n hay mất,
sống hay chết tùy theo cách hiểu và cách nh́n về đất nước. Với tôi và
có thể với nhiều đồng bào cùng cảnh ngộ, quê hương không chỉ là những
vật vô tri, vô giác nhưng phải là một quê hương sống động và có tâm hồn.
Sau 30 thágng Tư năm 1975, quê hương Việt Nam đă mất tâm hồn và thậm chí
trở thành tù ngục. Việt Nam, nơi con người bị đối xử như con
vật. Việt Nam, nơi con người không có quyền nói những điều họ muốn
nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những ḍng thơ họ muốn viết. Hàng
triệu người Việt Nam đă không c̣n chọn lựa nào khác hơn là ra đi.
Hành tŕnh của hơn hai
triệu người Việt Nam từ sau tháng Tư năm 1975 không chỉ được
ghi bằng những bước chân rỉ máu trên những chặng đường đầy
đau thương thử thách nhưng c̣n qua những bài hát được viết như
tiếng thét gào của đoàn lưu dân trên sa mạc trần gian.
Mai tôi đi, tôi đi
vào sương đen Sương rất độc tẩm vào ngướ nỗi chết Quê
hương ta sống chia ḍng vĩnh biệt Chảy về đâu những nước mắt
đưa tin. (Mai tôi đi, nhạc Nguyễn Đ́nh Toàn)
Những ngày tháng lênh đênh
đó, ai không dừng tay dù đang làm việc ǵ khi nghe Người di tản buồn của
nhạc sĩ Nam Lộc, Sài G̣n niềm nhớ không tên của nhạc sĩ Nguyễn
Đ́nh Toàn hay Đêm nhớ về Sài G̣n của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng
cất lên từ giọng ca Khánh Ly? Có ai không chợt nghe ḷng ḿnh chùng xuống khi chị Nguyệt
Ánh cất lên những lời năo nùng trong Một chút quà cho quê hương của nhạc
sĩ Việt Dũng? Có ai không nghe như có tiếng mưa rơi dù đang đứng giữa
phố Bolsa nắng gắt khi nghe giọng Ngọc Lan kể lể trong Khóc một ḍng sông
của nhạc sĩ Đức Huy? Và nhiều nữa, Phạm Duy với 1954 Cha bỏ Quê
1975 Con bỏ Nước, Nhật Ngân với Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh,
Châu Đ́nh An với Đêm chôn dầu vượt biển, Phan Văn Hưng với Ai
trở về xứ Việt, Phan Ni Tấn với Bài hát học tṛ, Tô Huyền Vân với
Quê hương bỏ lại v.v…
Và tất cả đă đóng
góp phần ḿnh viết nên bài trường ca đầy bi tráng của một bộ phận
dân tộc Việt Nam sau mùa băo lửa 1975. Từ Camp Pendleton đến Leamsing, Palawan, Pulau Bidong,
Sungai Besi, Bataan, White Head, Panat Nikhom, Galang, những tên tuổi địa danh đi vào lịch
sử Việt Nam qua cái chết tủi buồn của mẹ, qua giọt nước mắt
của em, qua tiếng gào thống thiết của anh vọng lên giữa Thái B́nh Dương
bát ngát.
Thời gian cuốn đi
bao vết tích, tạo ra bao đổi thay của thời thế và con người. Bây giờ,
một số nhạc sĩ đă qua đời, một số đang qua đời trong cách
khác và một số vẫn tiếp tục đi trên con đường lư tưởng dù tuổi
tác đă già. Nhưng dù sống hay chết, bỏ đi hay ở lại, những bài hát của
họ đánh dấu một giai đoạn lịch sử nhiều bi tráng của đất
nước và góp phần xây lên tấm bia đá thuyền nhân bi thương ngàn đời
trong lịch sử Việt Nam.
Và những người
c̣n ở lại, phải chăng họ dễ dàng trả lời “Việt Nam tôi đâu?”
Không. Tôi không nghĩ thế.
Nếu ai hỏi những người thuộc thế hệ đă trải qua giai đoạn
cùng cực những năm sau 1975 c̣n sống hôm nay có thể họ cũng sẽ trả lời
trái tim Việt Nam có một thời ngừng đập. Thời gian dừng lại. Không gian
đóng kín bịt bùng. Việt Nam đă chết ngay cả trong ḷng những người đang
sống giữa ḷng đất nước. Một triệu dân Sài G̣n dắt nhau sống lây
lất trong các vùng kinh tế mới. Nhiều trăm ngàn sĩ quan viên chức miền nam bị
đầy đọa khắp các trại tù. Con người Việt Nam sau 1975 vẫn phải
sống, phải thở, phải t́m mọi cách để sinh tồn trong hoàn cảnh nghiệt
ngă chứ không phải là những con người an vui hạnh phúc như phần lớn của
sáu tỉ người c̣n lại trên thế giới. Chính ông Vơ Văn Kiệt khi c̣n sống
đă phải thừa nhận niềm vui của đảng Cộng Sản là nỗi buồn
của nhiều triệu người dân Việt.
Dân tộc nào cũng có
thể phải trải qua những chặng đường đau thương gian khổ
nhưng Việt Nam có thể nói là một trong số rất ít quốc gia mà sự chịu
đựng kéo dài qua nhiều thế hệ. Hơn nửa đời người trôi qua, tiếng
thét vẫn c̣n vang vọng qua bài hát của nhạc sĩ Việt Khang:
Viêt Nam ơi Thời
gian quá nửa đời người Và ta đă tỏ tường rồi Ôi cuộc đời
ngày sau tàn lửa khói Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nh́n đời Người
lầm than đói khổ nghèo nàn Kẻ quyền uy giàu sang dối gian.
Sau 36 năm, Việt Nam
chẳng những không bước thêm một bước nào; trái lại, về kinh tế,
chính trị, so với đà tiến nhân loại, đă lùi xa hơn vào quá khứ, và văn hóa
đạo đức đang trở về với thời sơ khai nô lệ, nghĩa là thời
kỳ mọi của cải đều có thể mua bán, trao đổi, kể cả mua bán,
trao đổi chính con người. Người mẹ đang từng cơn xót dạ
nh́n đời mà Việt Khang gặp hôm nay không khác ǵ người mẹ mà tôi gặp đi
bán máu ngoài nhà thương Chợ Rẫy mấy chục năm trước. Nếu ai hỏi
Việt Nam của mẹ ở đâu, chắc chắn mẹ sẽ chỉ ra những nấm
mồ vô chủ. Những bầy em đói khổ nghèo nàn mà Việt Khang mô tả hôm nay
cũng không khác ǵ đám trẻ tôi đă gặp ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài
ba mươi lăm năm trước. Nếu ai hỏi Việt Nam của các em đâu, các
em sẽ chỉ ra những vỉa hè bụi bặm, những góc phố tối tăm. Nhưng
hiểm họa đất nước đang phải đương đầu không chỉ
là độc tài, tham nhũng mà c̣n là đại họa mất nước.
Giờ đây Việt
Nam c̣n hay đă mất Mà giặc tàu ngang tàng trên quê hương ta Hoàng Trường Sa, đă
bao người dân vô tội Chết ngậm ngùi v́ tay súng giặc tàu
Là một người con
dân Việt Nam Ḷng nào làm ngơ trước ngoại xâm Người người cùng nhau
đứng lên đáp lời sông núi
Từng đoàn người
đi chẳng nệ chi Già trẻ gái trai giơ cao tay Chống quân xâm lược Chống
quân nhu nhược Bán nước Việt Nam
Việt Nam tôi đâu Việt
Nam tôi đâu
Chúng ta đọc quá nhiều,
nghe quá nhiều, hănh diện quá nhiều về lịch sử hào hùng bốn ngàn năm giữ
nước. Vâng, nhưng đó chỉ là những hào quang của quá khứ, là những thành
tựu của tổ tiên, không phải của chính chúng ta. Những bài học thuộc ḷng về
một quá khứ hào hùng của dân tộc không thể giúp lau khô đi ḍng nước mắt
hôm nay:
Kính thưa thầy đây
bài thuộc ḷng của con Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến Một
trăm năm Pháp thuộc hai mươi năm đọa đày Làm sao con thuộc được
truyện Kiều Nguyễn Du. Kính thưa thầy đây là quyển vở của con suốt
một năm không hề có chữ con để dành ép khô những gịng nước mắt của
cha con, của mẹ con, của chị con, và của …chính con. (Bài học của
con, nhạc Phan Ni Tấn)
Lịch sử không phải
là một ngôi miếu để thờ cúng nhưng là một đời sống luôn đổi
mới. Truyền thống chỉ là một thói quen lỗi thời nếu truyền thống
không được hiện đại hóa. Angkor Wat, Angkor Thom nguy nga, đồ sộ nhưng
không cứu được một phần tư dân tộc Khờ Me khỏi bàn tay Pol Pot. Tương
tự, Ấn Độ, một dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất nhân loại
và trải qua các thời đại hoàng kim từ Ashoka đến Gupta, cũng đă chịu
đựng hàng loạt ngoại xâm từ Mông Cổ, Hồi Giáo và thực dân Anh kéo dài suốt
600 năm.
Việt Nam cũng thế.
Nếu chỉ biết tôn vinh quá khứ và làm ngơ trước hiểm họa Trung Quốc
hôm nay, rồi lịch sử dân tộc với những chiến công hiển hách của các
thời Ngô, Đinh, Lư, Trần cũng sẽ chỉ là những tấm bia trong một ngôi đền
cổ. Hăy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều im lặng, làm ngơ,
chịu nhục trước hiểm họa mất nước, rồi bốn ngàn năm nữa,
những đứa trẻ ḍng Việt tộc, đi ngang qua di tích đền Hùng, sẽ căm
hận biết bao khi nghĩ về tổ tiên nhu nhược của chúng vào bốn ngàn năm
trước đó.
Đừng để lại
cho các thế hệ Việt Nam tương lai một ngôi đền mà ngay hôm nay hăy xây cho họ
một căn nhà Việt Nam Mới tự do, dân chủ, công bằng, bác ái.
Bài hát Việt Nam tôi đâu
của Việt Khang là tiếng chuông đánh thức hồn thiêng sông núi đang ngủ quên trong
ḷng người. Ngọn đuốc Việt Khang thắp lên soi sáng con đường đi
về phía trước. Các thế hệ Việt Nam từ lúc chào đời đă mang tinh hoa
tinh huyết của ḍng giống Lạc Long, nhưng tinh hoa tinh huyết đó phải được
mài dũa thành vũ khí để bảo vệ đất nước hôm nay. Cứu Việt
Khang, do đó, không phải chỉ cứu một thanh niên, một nhạc sĩ đang bị
tù đày nhưng hơn thế nữa, tự cứu chính ḿnh và từ đó đứng lên
cứu dân tộc ḿnh.
Trần Trung Đạo |